2/12/07

Phần thưởng

Từ: Nam Dang
Ngày 02 tháng mười hai 2007, lúc 5:44 CH

Chao cac ban,
Minh duoc co Mao (me cua Ngoc va Minh) cho xem anh nay, minh muon tat ca cung xem.

Co Mao noi rang anh chup bac Hoang Tung trao qua cho cac ban hoc sinh tien tien tai den tho ho Phung, xa Thong nhat - "dai ban doanh" cua chung ta luc do.
Khong ro anh chup nam nao va do ai chup, neu ai nho duoc thi thong bao cho moi nguoi nhe. Co nhung ai trong anh nay? Xin cho biet luon nhe.

Minh co y kien them the nay, moi nguoi trong chung ta chia se duoc gi ve ki niem xua thi hay qua, tuy nhien neu nhu cac bac phu huynh dong gop nua thi co khi lai them mot huong nhin nua ve chung ta "nhung ngay xua ay". Mong cac ban cho biet suy nghi cua cac ban nhe.
Thân ái,
Dang Hoang Nam
TTST BND: Mời bấm vào để xem ảnh cỡ to hơn ở Trang chuyên hình ảnh

18/11/07

Tản mạn

Thanh Hà tuy rất bận bịu với công việc, nhưng có lẽ vừa là thú vui, vừa là nghề nên có rất nhiều trang viết tích lũy lại. Mời các bạn ghé thăm Trang của Hà Phạm đang lưu lạc trên mạng, cùng chia sẻ một chùm tản mạn các suy ngẫm, cách nhìn là lạ, thú vị và đậm chất nhân văn của chị.
Tự giới thiệu: Em là em anh Giao. Sinh 1961. Có 2 con trai, đứa đầu 17, đứa nhỏ 10. Hiện đang công tác ở Báo Nhân Dân (em là dân du mục, sau khi từ Đài PTTH Hà Nội về Báo ND năm 1989, đã đi từ ND hang ngay đến ND tuan và bây giờ là ND thang, ly do: it than thien voi sep :)).Các anh có ảnh của em thì cứ đưa lên, em xấu nên ngại chụp ảnh.
Kỷ niệm sâu sắc khi ở Trại trẻ em sẽ kể dần dần được không? Em là đứa hay nói ngược, nhưng chăm lao động, nói chung là người tử tế :).

Tèo ơi!

Cái ngõ dưới gầm cầu trước kia vốn nổi tiếng vì thịt chó, ngon hay rẻ thì không biết- một trong hai thứ chứ không phải cả hai. Nhưng chỉ một trong hai thứ ấy, cộng với chút tiếng tăm xưa cũ, là đủ chiều đến, nhất là chiều mùa hè, ở đây đông đặc những người. Đông như chợ vỡ, theo đúng nghĩa đen. Bia tràn như suối, náo nhiệt những riềng cùng mẻ trong khói chả chó, xô bồ những lòng những dồi, lạc rang bánh tráng, bún xáo rựa mận… Mỗi mét vuông là một bàn nhậu. Mỗi bàn nhậu là một đám người. Đàn ông dễ thường không ghé qua những chỗ thế này là chiều đến không thể nào yên lòng về nhà. Tiếng người – không tả được vì không thể nghe được - cứ ào ào, cứ the thé đến nỗi chẳng ra tiếng người nữa. Muốn gọi được món nhậu hay bia, muốn trả lời điện thoại, muốn tâm tình với nhau nữa cũng thế, duy nhất chỉ có cách là gào lên, gào to tướng lên, mới hy vọng được nghe thấy.
Và họ đang gào lên, cái mâm nhậu ở giữa ngõ, sáu người đàn ông đã ngồi từ lúc nào, bia chắc đã nhiều, mặt ai nấy đỏ gay đỏ gắt. Họ chúc nhau cái gì đó, quan trọng, như là ai đó mới lên chức, mới thắng được quả gì đậm. Hôm nay mới là bữa nháp thôi, một trong những bữa nháp thôi, có quyết định hẳn hoi thì ít ra cũng phải ba ba hoặc cá chình…Mà hôm ấy không bia đâu, dứt khoát không bia bọt gì hết, phải có mấy chai xanh…Phải mấy chai xanh, mấy chai whisky blue hẳn hoi, đen không được, đen dạo này toàn dỏm…, bốn chai là đủ đấy. Em thì chỉ xin chầu hát, hát có tay vịn, tất nhiên…Mình ăn thua gì. Muỗi, so với mấy con bạc triệu đô. Đọc báo sáng nay chưa? Khiếp không? Cứ lan man, câu được câu mất, trong cái đám chợ vỡ, làm sao nghe cho đầy đủ một câu chuyện được, dù có ngồi ngay cạnh cũng không nghe được. Người này nói, người kia chen, chắc chỉ có trời mới làm cho họ bé cái mồm lại được.

Vậy mà, giữa lúc ấy, giữa lúc ai cũng gào lên đến thất thanh để nói những chuyện hoàn toàn tầm phào vô bổ như thế, ngay bàn nhậu ấy, một giọng khe khẽ, khan khan, một giọng vo ve như tiếng muỗi chợt vang lên, ấp úng, ngập ngừng, và chẳng hiểu sao cái tiếng vo ve ấy lại nghe rất rõ: "…Tèo ơi, chú đây, nhận ra chú không? Cho chú mấy đồng về quê…." Ông lão ăn mày ngửa cái mũ rách. "Chú, chú thật à?", một trong sáu người kêu lên thảng thốt. "Ừ, chú, đói quá…". "Anh Quang, đúng là chú anh à?". "Chú tao đấy, chú ruột tao đấy, thì sao?"
Lại quát, lại ầm ầm. Trong tiếng quát có gì như tiếng khóc.

Giá trị

Anh vẫn biết giá trị căn nhà mình ở, nhà hai mặt phố cổ, ngay gần Hồ Gươm, mỗi xăng-ti-mét vuông đều có thể quy ra tiền. Biết, để ở cho sướng, chứ không phải để bán.
Nhưng để ở cho sướng, thì người ta đã không làm cư dân phố cổ. Nhà nát, vôi vữa lở lói xậm xệ. Tiện nghi trong những nhà ống xưa cũ thì không nói ai cũng biết, chuyện vệ sinh luôn luôn là một nỗi kinh hoàng.
Mọi người, bao gồm tất cả anh em trong nhà, tính chuyện ra đi, để ở cho sướng. Căn nhà bán rất dễ (nếu bán), người ta đã có một dự định biến nó thành khách sạn, khách sạn hiện đại xây kiểu giả cổ trong phố cổ. Giá trị của nó tất nhiên khỏi phải bàn. Bán đi sẽ được không ít tiền, những chung cư vào loại sang trọng nhất thành phố không đến nỗi không với tới, thậm chí còn dư tiền để gửi tiết kiệm ăn tiêu lâu dài nữa. Mọi người quyết tâm đi, và có thể đã đi ngay, nếu không vướng anh. Anh chỉ có một căn phòng nhỏ trong cả ngôi nhà ấy thôi, nhưng căn phòng nhỏ của anh kiên cố như một pháo đài, anh cố thủ trong pháo đài ấy. Lý do để anh không đi, ngoài chuyện căn nhà là do tổ tiên bố mẹ để lại, ở vị trí đẹp thế, trung tâm thế (thì mới có giá ấy chứ, mọi người bảo anh), còn thêm một lý do nữa làm ai cũng ngán, là mỗi chỗ nứt vỡ trên cánh cửa gỗ đối với anh đều là kỷ niệm. Than ôi, kỷ niệm chồng chất, vì cánh cửa đã nứt vỡ quá nhiều. Và không ai làm anh lay chuyển được. Bàn bạc hàng trăm cuộc, có thảo luận, có khóc lóc, có van xin, có cả doạ dẫm nữa, vẫn không đi. Anh bảo tồn căn phòng của anh trong ngôi nhà như bảo tồn sự ngang chướng của chính mình. Không thể bán ngôi nhà nếu anh vẫn giữ căn phòng ấy, căn phòng được chia trong di chúc của cha là thuộc về phần anh. Cả nhà bất lực. Kỷ niệm tất nhiên là quý. Mọi người bảo anh, nhưng môi trường sống tiện nghi cũng quý, các cháu lớn rồi, phải có phòng riêng, phải sống đàng hoàng hơn, không chui rúc trong ngôi nhà cũ với những kỷ niệm được. Dần dà, mọi người căm thù những kỷ niệm của anh, Trời biết là những kỷ niệm gì, chỉ biết anh cản trở con đường hướng tới tương lai tươi sáng của cả nhà.
Cánh cửa vẫn ngày càng nứt vỡ. Một ngày kia dân phố thấy cánh cửa vỡ hẳn, rồi nửa năm sau, như có phép tiên, ngôi nhà cổ biến thành khách sạn mi-ni. Anh đã đi đâu với những kỷ niệm của anh, không ai biết, chỉ biết anh không về căn hộ dành cho anh trong một chung cư cao tầng mà cả nhà đã cùng dọn về. Có người bảo anh đã thành con nghiện, công nợ ngập đầu- vì nợ nên phải đồng ý bán nhà. Có người bảo không phải thế, anh đã về nông thôn sinh sống. Cũng có người bảo anh vẫn loanh quanh cạnh Hồ Gươm, không đi đâu cả…dân phố không như xưa nữa, ngày càng thờ ơ với những chuyện của nhau. Những giá trị mất đi là mất hẳn, những cánh cửa nứt vỡ đã đóng chặt.
Mấy năm sau người ta cũng quên hẳn anh như quên ngôi nhà cũ. Khách sạn thì ngày càng ăn nên làm ra.

Xin chữ

Kể từ ngày các thầy đồ hiện đại quyết tâm xã hội hoá môn thư pháp học, nhằm nhắc nhở dân ta đừng quên một thú vui tao nhã là đầu năm xin chữ, vào ba ngày Tết, phố Giám bỗng hoá ra phố Hàng Chữ, các bức tường quanh Văn Miếu bỗng dưng thành nơi phơi đầy giấy đỏ, vỉa hè thành nơi bày đầy nghiên bút và dân đi chơi quanh đó đều là những người tha thiết vốn văn hoá truyền thống của cha ông.
Trong số những người ấy, trẻ cũng đông mà già cũng đông, có một đôi trung niên luôn đi sát bên nhau. Người đàn bà má phấn môi son, áo giả lông thú mặc ra ngoài áo dài, người đàn ông tóc đã hoa râm, áo da đen đánh xi cẩn thận, miệng ngậm tẩu lệch một bên ra dáng tay chơi một thuở. Nhìn qua cứ nghĩ đến một vẻ đẹp sắp mai một của người Hà Nội cũ. Nghĩ đến thôi, chứ nhìn kỹ thì không. Họ thiếu đi cái độ lắng cần thiết. Lẽ ra họ cũng chẳng có gì nổi bật nếu người đàn bà đừng nhí nhảnh quá. Tuổi như thế rồi mà nhí nhảnh dễ bị lộ, ngay cả giữa đám đông. Kéo tay người đàn ông thoăn thoắt từ chố này sang chỗ khác, khen chữ người này đẹp, chữ người kia thường, bà ta nói nhận xét của mình một cách khá ồn ào. đi khá nhiều, khen chê khá nhiều rồi, vẫn một câu hỏi lặp đi lặp lại, rằng không biết xin chữ nào cho hợp, Phúc, Lộc, Thọ, An, Khang…, người ta xin nhiều quá, mình chẳng biết nên chọn chữ nào. Năm ngoái xin chữ Đức rồi, hay năm nay em xin chữ Tâm, chữ Tâm hoặc chữ Nhẫn được không - bà ta hỏi người đàn ông. Ông ta từ nãy lẳng lặng đi theo, không nói gì- Tâm treo ở nhà, Nhẫn treo ở cơ quan, hoặc là ngược lại, lấy cả một chữ hay hai chữ cứ hỏi to giọng, rồi cứ băn khoăn đi lại, một mình người đàn bà làm thành một cái chợ trên cả một khúc đường cũng đang lúc rất giống chợ.
Điều bất ngờ với tôi, người đã chú ý đến họ từ nãy, là câu trả lời của người đàn ông. Giới hạn của sự kiên nhẫn có vẻ như đã tới cùng. Bỏ cái tẩu trong miệng ra, ông ta bảo, giọng khá trầm, và không hiểu sao lại mang vẻ độc địa đến thế: “Em thích thì cứ lấy cả hai chữ đi, treo cùng một chỗ, chữ Nhẫn treo trước, chữ Tâm treo sau…”,“Sao lại thế ?” Người bà hỏi lại, dường như nhận ra ngay thái độ của người đàn ông, và choáng: “ Ah nói thế nghĩa là gì? Nhẫn rồi đến Tâm, anh bảo em Nhẫn Tâm à?”
Và rồi nổ bùng, như một cơn điên dại kìm nén rất lâu , bà ta nói như gào lên, như quanh mình không có ai, giọng đấy nước mắt: “Anh bảo em nhẫn tâm ? Ai nuôi con anh mà anh bảo em nhẫn tâm? Đến mẹ đẻ ra nó còn bỏ nó, anh trách em được sao? Nó nghiện thì phải vào trại, anh muốn để nó ở ngày Tết, anh có nghĩ đế em bao năm rồi không được ăn một cái Tết yên lành không…? Anh có nghĩ không?”
Bi kịch bất ngờ phát lộ ngoài đường quá lớn, tránh đi cho họ khỏi ngượng là cách hay nhất tôi có thể làm lúc ấy.
Một vòng quanh phố Giám, tôi lại trông thấy họ, vẫn bên nhau, với một chữ trên tay người đàn ông, một chữ thôi, và đó là chữ Nhẫn. Chữ Nhẫn nổi bật trên nền giấy hồng điều, màu mực thắm chưa khô, ướt như loáng nước mắt của cả hai người .

9/11/07

"Best-Selling Book" - Sách bán chạy nhất?

Từ: vuquocloc
Ngày: 24/10/2007 8:50 PM
Tiêu đề: bài viết

Hi anh HD!
Mấy hôm rồi em đi Bạc Liêu có việc, lu bu quá không vào mạng, bữa nay về ghé Blog thấy bài mình trên đó rồi. Cám ơn anh đã insert những hình ảnh minh hoạ cho bài viết của em, ảnh thật đẹp và ý nghĩa, nhất là cái ảnh cuối, em thích lắm. Em định viết một chuyện nữa về anh Trần Dũng ...

À em thấy nên khuyến khích mọi người viết, viết một chuyện nào đó của mình ở trại trẻ và sau đó lập ra một ban, biên tập lại những câu chuyện ấy, chắc chắn mình sẽ có một tuyển tập rất hay và thú vị, thành phần của Ban Biên Tập thì nên mời mấy người có kinh nghiệm viết, đảm bảo mình sẽ có một Best-selling book, và một cuốn sách như thế sẽ không bao giờ có đoạn kết vì ai cũng muốn biết số phận của những nhân vật trong truyện hồi nhỏ bây giờ ra sao. Thậm chí em còn nghĩ có thể giành cho mỗi người vài trang, có cả ảnh, vài nét giới thiệu tiêu biểu và truyện của họ, mình sẽ in và xuất bản nội bộ để làm kỷ niệm cũng được. Kinh phí in thì không khó, sẽ có ngay, chắc nhiều người muốn tài trợ, riêng em thì sẵn sàng, anh thấy thế nào, hay chứ nhỉ? Mình là con cháu nhà báo, không theo được nghiệp các cụ thì cũng phải làm được "Báo nhà" chứ.

Anh thử bàn với mọi người coi sao nha!
-------------------------------------------------
Từ: hieu_dan
Ngày: 24/10/2007 10:37 PM

Ảnh trong bài là do Lưu Bình tìm và post lên đấy! Hiện chỉ có 2 người trong Ban Biên tập (gọi là "Ban" cho oai!). Lần sau Lộc gửi mail nhớ CC. cả về vn.hanoi@gmail.com (hộp thư của blog) nữa nhé!

Ý tưởng của Lộc rất hay, thu lợi được về nhiều mặt (đúng là "Nhà buôn"!), nhưng còn mọi người của Trại trẻ tham gia được đến đâu thì chưa biết, cứ cố gắng nếu cuối cùng làm thành tập sách được thì tốt (tất nhiên phải gia công sửa bài nhiều)!.
Việc viết bài, cứ chuyện gì dễ thì viết trước, còn nếu đang muốn viết gì thì cứ viết, chẳng ngại đâu.

Bọn mình đang chỉnh cỡ chữ trên Blog cho to ra, dễ đọc hơn, Lộc thấy thế nào?
-------------------------------------------------
Từ: hieu_dan

Lộc thân mến,
Bận việc quá nên quên bẵng đi mất, mình muốn tiếp tục đề tài viết hôm trước Lộc nói đến.

Bản thân mỗi người trong chúng mình đã có nhiều câu chuyện để kể, mỗi một kỷ niệm dù nhỏ cũng có thể biến thành một truyện thú vị nếu khéo viết, cộng với khả năng hiểu biết của người viết bây giờ khác với nhân vật trong truyện, sẽ thêm thắt được nhiều đánh giá bao quát hơn.

Mỗi người có những ghi nhớ khác nhau, nhưng giống nhau ở chỗ nếu duyệt lại cả chuỗi kỷ niệm như Ngọc Thụy, Hải Đường v.v... thì cứ thấy hồi ức cuộn cuộn đổ về (đôi khi mất cả ngủ!). Mình thấy đó cũng là một cách hay.

Nhưng mặt khác, nếu cứ viết như thế thì chẳng mấy chốc cạn nguồn, thay vì thế, có thể chỉ viết dần dần, mỗi hoặc vài sự kiện nhớ lại biến thành một câu chuyện được viết sao cho thú vị, như thế mới làm nên tuyển tập như Lộc nói.
Tất nhiên, anh chị em của Trại trẻ chẳng phải ai cũng có khả năng viết hay, nhưng cái cần trước tiên là kể ra được hồi ức của mình, sau này biên tập - sửa chữa lại - thậm chí hư cấu thêm tý chút, nó như nguyên liệu mộc để làm nên bộ sách.
-------------------------------------------------
Từ: vuquocloc

Anh Dân thân mến,
Thật là có lỗi lớn vì hôm trước em đã dự định viết thêm bài rồi mà công việc ở đâu nó cứ kéo đến nên chưa làm được, ngay cả việc dự định ra Hà Nội cũng phải hoãn lại, trong vài ngày tới em sẽ cố gắng dành ra thời gian rảnh để làm một cái gì đó cho "khuây khoả" với cái Blog của chúng mình.

Coi ảnh hôm rồi anh em ngoài đó tổ chức sinh nhật vui quá nhỉ, chắc sắp tới em cũng bàn vói mọi người trong này nên thỉnh thoảng tổ chức gặp nhau không thì cái sự "mưu sinh" nó làm cho mọi người quên nhau mất.
Chắc khoảng cuối tuần em sẽ ra, gặp nhau anh em mình sẽ có thời gian bàn thêm chuyện anh nhỉ?

Công việc của em vẫn vậy , cuối năm nên hơi bận hơn một chút, tranh thủ "Thư" anh vài dòng và mong anh khoẻ
-------------------------------------------------
Từ: hieu_dan

Mình nghĩ mọi người ai cũng thế, cuộc sống - làm việc - sinh hoạt hàng ngày thì không nên trì hoãn, phải cố gắng thôi. Tuy thế, tranh thủ dành được chút nào cho mình với quá khứ cũng tốt, vì nó phù hợp với tình cảm của mình. Cho nên, các bạn cũ trại trẻ mỗi người một hoàn cảnh, gặp gỡ nhau trong cuộc sống hay trên blog được bao nhiêu hay bấy nhiêu.

Khi nào bố trí được thời gian, cứ a-lô mình, Lưu Bình hoặc ai đó ngoài này nhé!

1/11/07

Loa...loa...loa! Xin bà con phát biểu cho!

Từ: huynh dungnhan
Ngày: 31 tháng mười 2007 6:45 CH
Tiêu đề: Ảnh cũ

Thân gửi các bạn,
Hôm nay lục tìm thấy một tấm hình rất thú vị, vì trong tấm hình có khá nhiều người trong trại trẻ. Chắc là tấm hình này chụp ở sân nhà bác Lê nơi sơ tán. Những chiếc áo bông lúc đó mới tội nghiệp làm sao! Có bạn không có dép nữa...
Gửi đến các bạn. ai nhớ tên từng người thì chú thích giúp nhé, tôi chỉ nhận ra mấy người thôi...Mấy chục năm rồi...
Chúc tất cả mạnh khỏe và thành đạt!

Huỳnh Dũng Nhân

Từ HuynhDungNhan

Như bạn thấy, không chỉ kỹ thuật, phương tiện chụp, điều kiện bảo quản ảnh, mà chính thời gian đã phủ một lớp dày lên hầu như tất cả, đến nỗi mình nhìn mình còn thấy ngỡ ngàng, thậm chí không nhận ra mình!

Sau đây là đoạn trao đổi e-mail giữa Hiếu Dân, Dũng Nhân và Lưu Bình:

Dân:
Hai bức ảnh tuyệt vời! Thật đáng công tìm!
Nhưng Nhân cứ đọc tên mấy đứa nhớ được ra, còn lại mọi người sẽ bổ sung!
Mình bắt đầu từ Nhất Phương cao nghều, bên dưới là Nhân thì hơi bé - chẳng nhẽ là Lộc cộc đuôi? Sang phải là: Nhi, Hoàn hoặc Bé, Đặng Nam.
Quay lại từ giữa, ở hàng đầu: giống Quang ngọng hơn là Châu, tiếp là Hùng, Ngọc, Khánh bẹt, Giao.
Hàng dưới, từ trái sang: chả phải Dân thì ai? Tiếp đến Không rõ mặt, rồi Nguyên, còn 2 đứa nữa chưa nhớ.

Bình:
Đấy chính là Nhân (ko phải Lộc). Hai lý do: 1- Ngày ấy N bé như vậy đấy, 2- Trong cách ăn mặc, dù là trẻ con, dù là ngày ấy khốn khổ, N đã có cái gì đó nghệ sỹ.
Châu đấy (không phải Quang), quần đặc thù mà, còn thủng đít nữa. Ít thằng đi đất, ngoài Châu.
Không phải Hoàn, không phải Bé, mà là Lâu (có thể Tảo) con bác Lê. Chúng ta không ai có áo nâu tứ thân (không cổ, túi dưới) như thế.
Khả năng em cũng đến vậy thôi, đang thắc mắc sao ko có mình trong đó!
Chỗ này nhìn sang vườn nhà người khác, đằng sau (về bên tay trái bức ảnh) là cái giếng.

Dân:
Đúng cạnh cái giếng có cây bưởi và cây hồng bì rồi. Quay lưng sát hàng rào có cây mây nhiều gai.
Mà Bình không nhìn thấy a Dân à?

Nhân:
Tấm hình này có mấy nhân vật nhận không ra được. Đó là người đứng hàng sau, cạnh anh Nhất Phương, hình như Tảo hay Lâu con bác Lê chủ nhà nơi sơ tán?
Cũng hàng sau, người thứ ba tính từ Hiếu Dân sang không biết là ai (có lẽ là Nguyên, anh em nhà Quang ngọng)? Bên cạnh người đó là Chính con cô Hà Hoa. Vũ Quốc Hùng con bác Oánh đứng cạnh Ngọc con chú Lưu, còn người mặc áo trắng duy nhất trong tấm ảnh là Nhân đứng cạnh anh Nhi.

Dân:
Mình với Lưu Bình cũng thống nhất người áo trắng là Dũng Nhân.
Nhưng người mà mình nghĩ là Quang ngọng thì Bình nói là Châu?
Như vậy Nhân phát hiện thêm được Minh Chính.

Nhân:
Mình nghĩ người đó là Châu chứ không phải Quang. Cứ đưa lên mạng mọi người sẽ biết. Thế nhé. À , gửi thêm cái hình Huỳnh Dũng Nhân bây giờ...

Dân:
Mình xem lại, cho rằng Châu bị lấp phần cằm đứng cạnh Nguyên.
Còn cạnh Đặng Nam là Bé thì đúng hơn là Hoàn, mình nhớ anh em nó ngày xưa có cái áo kiểu ấy.

Bây giờ, đến lượt bà con cho xin ý kiến?

31/10/07

Như người Mẹ hiền

Ba cậu con trai quây quần quanh người mẹ mới gội đầu xong, đang ngồi hong tóc. Bấy giờ đang lúc ngủ trưa, trại trẻ yên ắng lạ thường. Nồi chè vừa nấu chín, đang bốc lên ngào ngạt cái mùi thơm lịm của gừng với mật. Người anh cả đang say sưa với quyển truyện trong tay. Cậu hai, đang hí húi vẽ. Chỉ có cậu Út dường như không kìm được cơn thèm, xoa tay dậm chân, đòi mẹ được ăn chè. Người mẹ vẫn thong thả chải đầu. Đoạn bà nhìn ý tứ qua bức rèm tóc về phía cuối gian nhà , nơi vẫn còn một thằng bé khác đang ngồi ra vẻ chăm chú học bài nhưng mắt thỉnh thoảng lại liếc trộm về phía bốn mẹ con. Người mẹ đã múc xong ra bốn bát chè lưng lưng. Bát cuối cùng hình như không còn đủ để đầy bằng ba bát trước. Bà bảo cậu Út:
- Con mang cho các anh. Cả bát này cho bạn ngồi đằng kia nữa.
Cậu Út ngạc nhiên, nhưng bà chậm dãi nhắc:
- Làm đi con.
Thằng bé nọ, lúng túng đỏ mặt. Hình như nó xấu hổ vì một điều gì đó. Chỉ có người mẹ là hiểu tất cả. Vào cái thời bom đạn, đói kém ngày ấy, trẻ con thèm khát bất cứ thứ gì có thể cho vào mồm được. Huống chi đây là bát chè, thằng bé nấn ná không muốn đi là như vậy. Người mẹ nhẹ nhàng như thể nói với con trai mình:
- Ăn đi cháu.
- Cháu …cháu…không ăn đâu…ạ

Thế đấy. Đã thèm rỏ dãi, cấn cá ngồi lại để xem người ta ăn, đến khi được mời lại ra vẻ, thật là buồn cười cho trẻ con. Bà không những dỗ dành để cậu bé ăn, lại còn động viên các con mình ủng hộ lời mời đó. Cậu Hai bê bát chè lên và nói thật cảm động:
- Cậu với mình cùng lớp mà, ăn đi, xấu hổ gì.
Người mẹ bỗng làm thay đổi tình thế, khiến cả ba cậu con trai và thằng bé nọ thoáng chút ngạc nhiên:
- Ăn đi, đây là bột sắn và mật bố mẹ cháu gửi cô mang vào nấu cho tất cả cùng ăn đấy.
Anh cả và cậu Hai như hiểu ra, nên đã cùng hùa theo cái lý do rất tuyệt vời mà người mẹ vừa nêu để dỗ thằng bé:
- Thấy chưa, của nhà mình mà, ăn sợ gì
Thằng bé nọ được lời bà mẹ, như gạt bỏ được những ngăn trở hời hợt cuối cùng của cơn sĩ diện hão, từ từ bê bát chè lên và nói lúng búng:
- Cám ơn cô. Cám ơn anh và bạn.
Đã bốn mươi năm trôi qua, thằng bé nọ vẫn nhớ về bát chè, có lẽ ngon nhất trong đời mà nó từng được ăn, nhớ về hình ảnh một người mẹ chăm sóc và yêu thương tất cả trẻ con trong trại trẻ như con mình.
Thằng bé đó chính là tôi bây giờ. Người mẹ đó là bà Hồ Thị Vân, mẹ của anh Nguyên, Quang, Nam.
Khi tôi kể lại chuyện này cho đứa con mười tuổi của tôi nghe, nó bảo: “Thế mà bố cũng… tin ngay được là bột và mật của ông bà gửi vào”.

Hà Nội tháng 10/2007, Lưu Phương Bình

29/10/07

Tứ Bật Mã Ôn?

Đó là gì vậy?

Xin thưa: không phải Tôn Ngộ Không dùng phép thuật sinh ra Tứ Bật Mã Ôn, mà đó là mấy ông tướng kiếm cớ để kéo bạn bè đến vui vẻ!
Đúng là Kiều Tuấn, Lưu Bình, Đặng Nam, Tuấn Phong đều sinh nhật vào tháng 10 thật! (Xem ảnh bánh sinh nhật)
Tin nhắn nhe từ mấy hôm trước. Trưa nay, 29/10/2007, nhân Kiều Tuấn vừa ra Hà Nội, hơn chục người kéo đến quán Vọng Ba Lâu, ở ngách sau Xưởng phim truyện VN (Hồ Tây), để thổi nến (quả thực, không ai kịp đếm xem lúc Thúy Oanh cắm có đủ 51 que nến không!).
Nhiều bạn bận không đến được, nhưng lần này lại xuất hiện mấy gương mặt lạ (lạ là do trước chưa có mặt trong ảnh chụp - chính thức hoặc không chính thức - của blog Trại trẻ sơ tán báo Nhân Dân): Hồng Quân, Trung Thành, Huy Hồng!
Hồ Tây chiều thu yên ả, mát dịu, cảnh xa mờ ảo như sương mù, rất thích hợp với những câu chuyện không đầu, không cuối râm ran của bạn cũ trại trẻ từ 40 năm trước.
Đủ thứ chuyện, từ chuyện hai thằng bé tẹo Đặng Nam, Hà Tĩnh láu lỉnh bí mật chạy theo mấy anh Dũng, Phương, Chính, Dân, Thanh ra núi Sáo (Tuy Lai) bị các anh đuổi về vì sợ máy bay Mỹ, ngày ở Tuy Lai còn mấy đứa bé đến mức phải ở trong cũi, cho đến sao bây giờ về lại nhà thờ họ Phùng, nằm thử thấy nhà bé tý tẹo, thò cả chân ra ngoài - thế mà ngày xưa mấy chục đứa ở vừa!
Có một chuyện mới, đó là việc Thúy Oanh có thể làm mối cho Chân một cô giáo tầm tuổi như tiêu chuẩn của Chân...
Hôm nay lại nhớ thêm được tên mấy bạn nữa, nếu Việt Khánh thu thập được địa chỉ liên lạc thì danh sách Trại trẻ sẽ không dừng ở số 101 như hiện tại.
Tiệc sinh nhật ấm cúng, vui vẻ! (Xem ảnh Thúy Oanh cười tít với Kiều Tuấn)
Mong có nhiều bữa sinh nhật tập thể kiểu này!
Chúng tôi sẽ có bài tường thuật ảnh, mời các bạn xem ở Trang chuyên hình ảnh.
Ảnh kỷ niệm trên sân thượng Vọng Ba Lâu: Trung Thành, Hiếu Nam, Hoàn phề, Hữu Chân, Quốc Phong, Thúy Oanh, Đặng Nam, Hồng Quân, Kiều Tuấn, Hiếu Dân, Minh Quang, Việt Khánh (không có trong ảnh: Lưu Bình bận chụp ảnh, Hà Hồng có việc về sớm, Việt Trung chạy xuống nhà).

Hiếu Dân

23/10/07

SẮN XÃ LUẬN

Xin thắp một nén hương cho bạn tôi
và chia sẻ với bạn
một chuyện vui lúc nhỏ nơi trần thế


Số phận đã may mắn cho tôi biết đến món ăn này từ khi tôi còn làm việc như một liên lạc viên cho "Bộ chỉ huy" nghĩa là do việc được tiếp xúc thường xuyên với các "ông Tướng" hoặc chí ít cũng là các sỹ quan cao cấp trong Bộ. Cái bộ chỉ huy ấy được thành lập không biết do sáng kiến của ai nhưng nó là trò chơi con trẻ " hoành tráng" nhất và thu hút nhiều người tham gia nhất ( tất nhiên chỉ là con trai thôi ) ở Trại lúc bấy giờ và hoàn toàn phù hợp với không khí kháng chiến ( vào thời điểm ấy ) của toàn dân tộc. Ngoài những việc như tổ chức chia phe đánh trận giả, "Bộ chỉ huy" thường có các hoạt động không mang tính chất "Quân sự " lắm như phân công cán bộ chiến sỹ quét sân nhà ông Lê (địa điểm trú đóng thường xuyên của " Bộ chỉ huy" ) hoặc múc nước giếng lên đổ đầy chum hay đảo rơm phơi trên sân hộ nhà chủ …v.v.
Đứng đầu " Bộ chỉ huy " lúc ấy là hai ông tướng mà nay quy luật khắc nghiệt của cuộc đời đã cướp đi cuộc sống của họ rồi, có bao nhiêu sỹ quan còn lại trong cái Bộ ấy thì tôi không còn thể nhớ nổi nữa vì do việc phong chức cho các sỹ quan dưới quyền của Bộ chỉ huy lúc đó cũng tương đối tuỳ tiện và đặc biệt là không có văn bản.
Do nguồn lương thực hạn hẹp lúc thời chiến nên ngoài những bữa cơm chính của trại trẻ thỉnh thoảng " Bộ " cũng có liên hoan nhưng thức ăn của các buổi liên hoan ấy tối đa chỉ là hai món và chủ yếu là dưới dạng củ, quả như mít, ổi xanh, sắn thuyền hay khoai, sắn nướng,và chính nhờ những buổi liên hoan với các sỹ quan cao cấp trong " Bộ" tôi mới biết được cách chế biến đơn giản nhưng tuyệt vời của các món ăn này. Món sắn nướng giấy báo là món tôi khoái khẩu nhất hay cũng có thể là vì định lượng khẩu phần quân nhân lúc ấy không thể làm "ấm lòng chiến sỹ" được nên hương vị của nó càng trở nên ngon với tôi một cách lạ kỳ
Tôi và một ông làm công tác Hậu cần của Bộ (Ông Hà Tĩnh - Thật tội nghiệp vì bạn tôi nay đã mất ) thường chỉ được giao làm nhiệm vụ sơ chế như rửa sạch, bóc lột vỏ sắn phần chế biến còn lại do một sỹ quan nào đó của Bộ đảm nhiệm, thế nhưng tôi nhớ rất rõ sắn được rửa sạch ra sao, giấy báo được nhúng nước ướt và gói bọc bên ngoài như thế nào rồi vùi xuống tro rơm nóng sau đó khi sắn chín đem lột hết giấy báo ra và nướng hơ lại trên than hồng để khi ăn miếng sắn dòn, vàng ruộm và thơm phức, chỉ có điều một số chữ in trên báo bị dính vào miếng sắn, nhưng thực ra vấn đề này cũng không quan trọng lắm vì những chữ này bị ngược rất khó đọc và chúng tôi ( kể cả những lãnh đạo cao cấp nhất trong Bộ chỉ huy ) cũng không kịp đọc nó trước khi đưa lên miệng.

Vào một dịp " Cải thiện " như thế, tôi được phân công cùng ông Hà Tĩnh đi sơ chế cái món sắn nướng giấy báo nổi tiếng này. Toàn bộ số sắn chỉ có bốn củ, nó nhỏ lắm , chỉ như cườm tay của trẻ con và không biết được cung cấp bởi nguồn nào, hình như là do đi mót được, do xin hay đổi bánh kẹo gì đó với con nhà chủ cũng không biết nữa. Vì có sự nhòm ngó của quá nhiều cán bộ chiến sỹ khác cũng như không được để lộ công việc cho các cô, bác bảo mẫu của trại, tôi và Hà Tĩnh nhận được chỉ thị phải lột vỏ sắn tại vườn mít nhà Bà Hoàn, một địa điểm giáp ranh với khu vực trú đóng của Bộ chỉ huy. Thực ra nó chỉ cách căn nhà của Bộ chỉ huy một khoảng sân hẹp sau đó tới giếng nước và hàng rào cây Găng nên chúng tôi cũng không phải đi lại vất vả gì và công tác sơ chế cũng rất thuận tiện vì gần giếng.
Vườn mít mát mẻ và rậm rạp, chẳng ai thấy chúng tôi cả, vườn lại nằm sau lưng nhà bà chủ, phía trước sân nhà bà phơi sắn lát, công việc thì không đến nỗi khó khăn vả lại bốn củ sắn nhỏ được bóc trong khí thế ẩm thực hừng hực nên không mất mấy thời gian. Trước khi đem về giếng rửa, không biết xui khiến thế nào tôi lại nhìn thấy trên sân qua khoảng hẹp đầu hồi nhà bà Hoàn một củ sắn lớn. Những thiếu thốn về lương thực thường niên tại các bữa ăn của trại trẻ cộng với kinh nghiệm hiểu biết thực tế về cách chế biến món sắn nướng hội tụ thành một quyết tâm sôi sục trong người tôi. Gần như đồng thời ông bạn tôi cũng phát hiện ra củ sắn mà lúc đó chúng tôi cho là vô chủ. Cho đến giờ tôi vẫn nhớ như in về chi tiết của cuộc trao đổi ngắn giữa chúng tôi lúc đó:
- Mày thấy củ sắn không ?
- Có
- Lấy chứ ?
- Nhưng nướng ở đâu ?
- Đừng lo
Và thế là chúng tôi hành động.
Khi bạn rơi vào những hoàn cảnh khó khăn đặc biệt, chính cuộc sống sẽ dạy cho bạn những kỹ năng để tồn tại. Dĩ nhiên là trong trường hợp này sắn của Bộ chỉ huy phải được nướng ở một chỗ khác rồi, nó được giao lại cho một "Sỹ quan" nào đó chế biến tiếp, còn chúng tôi thì bận bịu với công việc riêng của mình. Do tính chất không hợp pháp lắm của củ sắn nên chúng tôi tính toán chỉ sử dụng bếp sau khi bốn củ sắn của Bộ chỉ huy được chế biến hoàn tất. Loay hoay thế nào không biết nữa chúng tôi cũng kiếm được báo và nhúng ướt để bọc nó thế nhưng việc giấu củ sắn đã bọc báo ướt thật không đơn giản chút nào. Củ sắn quá to, kích thước của nó chí ít cũng phải gấp đôi hay gấp ba so với củ sắn của" Bộ". Cuối cùng chúng tôi cũng tìm được chỗ giấu thích hợp – vùi nó vào cây rơm cạnh bếp.
Hồi trẻ, khi còn ít tuổi, khi sự hồn nhiên còn đầy ắp trong tâm hồn, bạn thật khó giấu giếm điều gì trong lòng, mọi biểu hiện để muốn giấu giếm một điều gì đó nó cứ lồ lộ ra ngoài, không cầm được. Chúng tôi cũng vậy, thay vì phải lảng đi thì lại cố gắng giữ một khoảng cách gần nhất với cây rơm, làm vu vơ một chuyện gì đó và thậm chí là bắt đầu hát, hát lộn xộn, không ra bài, thỉnh thoảng lại nhìn về nơi chôn giấu củ sắn hoặc nhìn nhau mỗi khi có người tới gần. Nhịp tim thì khỏi phải nói, nó giống như một cái trống đình được treo trên cuống phổi tiếng của nó như muốn vỡ ra trong lồng ngực và nghẹt thở.
Rồi sắn của "Bộ" cũng chín nó được đem lên chia phần tại gian nhà trên, nơi các sỹ quan cao cấp của Bộ chỉ huy đang chờ đợi, mọi người chẳng ai chú ý tới chúng tôi nữa, chúng tôi hành động nhanh, lấy sắn ra khỏi cây rơm, đem vào bếp vùi ngay nó xuống lớp tro rơm còn nóng hực, quyết định sáng suốt nhất của chúng tôi lúc đó là không đem nướng lại trên than sau khi sắn chín nữa vì sợ bị lộ. Cũng chẳng vất vả gì khi mang củ sắn đã nướng chín ra khỏi bếp, chỉ việc lấy que kều rơm xiên nó vào một đầu và chui lại qua vườn mít bà Hoàn. Do không được nướng lại nên củ sắn chín sau khi được bóc giấy báo ra trông trắng ngà, chín nứt và bốc khói, nhưng trên thân nó có nhiều chữ ở tờ báo dính qua.
- Chữ gì nhỉ ?
Bạn tôi hỏi khi chúng tôi cùng lột lớp giấy báo cuối cùng trên thân củ sắn, nó cố gắng xoay người len qua vai tôi trong căn hầm chữ A (nơi chúng tôi quyết định lấy làm địa điểm tổ chức tiệc) để hướng thuận chiều chữ trên củ sắn cho dễ đọc
- Tao không biết, chữ ngược khó đọc quá – tôi lầu bầu trong hồi hộp
- Xa.. ã…lu.. ân – Nó nheo mắt và cố đọc thì thào
- Xã luận , đúng rồi, sắn xã luận - cuối cùng nó khẳng định
Và chúng tôi cùng cười
Bữa sắn hôm đó ngon tuyệt.
Cho tới giờ, khi đầu đã hai thứ tóc, sau khi lặn lội đây đó đã nhiều, đã nếm không biết bao nhiêu món ăn ngon, lạ cả ở xứ ta lẫn xứ người, chẳng bao giờ tôi có lại được cảm giác ngon một cách mỹ mãn như thế nữa khi chúng tôi "chén" củ "sắn xã luận'' hôm ấy. Nó ngon một cách kỳ lạ, thơm phức và chín bùi.
Năm ngoái, khi có chút công việc nhỏ, tôi cùng hai anh bạn đồng niên ( trước đây trong kháng chiến chống Mỹ cũng từng đi sơ tán nhưng khác trại trẻ) phải tới lãnh sự quán Zimbabwe ở Kualalumpur để xin cấp thị thực, buổi trưa chúng tôi vào một nhà hàng Tàu ăn uống, do có thời gian chờ duyệt hồ sơ ở lãnh sự nên cao hứng chúng tôi gọi món ăn đầy bàn và ăn uống ngân nga. Sau khi chén đủ "Sơn sản " " Hải sản " bất giác tôi nhìn thấy bàn của mấy người Ấn Độ ngồi bên cạnh kêu bánh Nann, thứ bánh này nó tựa giống cái bánh "nắp hầm" bằng bột mỳ của nhà mình lúc chiến tranh, tự nhiên tôi lại nhớ tới cái món " sắn xã luận " và đem chuyện ra kể với mọi người, chúng tôi được một trận cười vui vẻ, cười sảng khoái, ngặt nghẽo hồn nhiên như con trẻ trong nỗi nhớ da diết về một thời lúc còn thơ trẻ ở quê nhà .

Saigon, tháng 10/ 2007, Vũ Quốc Lộc

22/10/07

Tâm sự của Vũ Quốc Lộc

Vũ Quốc Lộc sau đợt ra Hà Nội đã cảm kích trước sự đón tiếp của anh em, đặc biệt đối với anh Dân. Anh đã có thư hồi âm rất nhanh, TTSTBND xin trích đăng những lời tình cảm của anh

Hi Anh Hieu Dan
Cám ơn anh và tất cả những anh em bạn bè cũ ở Trại trẻ mà may mắn em được gặp lại trong đợt ra Hà Nội lần này.Và đặc biệt chắc phải cảm ơn Trời vì mình đã có một buổi tối tuyệt vời để ngồi hàn huyên những chuyện cũ, mới sau 40 năm "lưu lạc".Đôi khi em vẫn "tiêu cực" nghĩ rằng những dịp được gặp lại anh em bạn bè cũ như vậy từ nay cho tới cuối đời chắc cũng không có nhiều, mỗi người đều bận bịu với công việc riêng của mình, mặc dù em hiểu những năm tháng sống gian nan, thiếu thốn trong Trại Trẻ với quá nhiều những kỷ niệm buồn vui lúc thiếu thời vẫn luôn nằm lòng trong anh, trong em và trong mọi người. Không ít lần em còn thấy rất rõ "nó" giống như một cái "chất", một cái gì đó rất khó diễn tả, rất "Báo Nhân Dân" sâu lắng và đầy ắp tình người. Mỗi lần em thấy khi gặp lại anh, chị em bạn bè cũ ở Trại Trẻ tự nhiên mình có cảm giác giống như khi anh đi xa về lại nhà mình, ngồi trên cái ghế quen thuộc, nằm trên cái giường quen thuộc của mình, một cảm giác tuyệt vời về sự an toàn.
Cám ơn anh "một cán bộ sỹ quan trong ban chỉ huy" ( trong trò chơi cũ lúc nhỏ ) đã giành cho " tay liên lạc " quèn này một bài viết với những hình ảnh minh hoạ chi tiết, nhưng nghe nó có vẻ hơi "Quảng cáo" thế nào ấy, hay là anh ưu tiên cho người ở xa ? hay là cái máu làm báo có sẵn trong bọn mình rồi ? Em nghĩ chắc Blog của mình nên có một mục gọi là "nhắn tin" hay "tìm đồng đội" gì đó để mọi người có thể biết tin tức về nhau cụ thể hơn và việc giới thiệu ai ở trên mục đó sẽ không còn là trường hợp " nghe" như có vẻ đặc biệt nữa, chẳng hạn việc giới thiệu cá nhân từng người hay tin mới tìm ra bạn cũ hay có nhu cầu tìm kiếm một bạn nào đó để thăm hỏi sẽ đúng chuyên mục hơn.
Về việc anh nói trong thư em sẽ lục lại khi tìm ra căn cứ chính xác về ngày tháng em sẽ báo anh liền.
Vài hàng gửi anh và mong anh khoẻ, đợt tới khi ra em sẽ gọi anh nha.

Vu Quoc Loc

Nhớ Mẹ An, Người Mẹ của Trăm Con!

Cám ơn Ngọc Thuỵ đã gợi nhớ lại sự cố “Con chuột trong quần của Hải Đường”. Đó đúng là phen sợ khủng khiếp nhất đầu đời của tớ đấy. Hic.

Nỗi sợ thứ 2 của tôi đó là bị bôi thuốc ghẻ. Hồi đó, không hiểu vì lạ nước hay sao mà bọn trẻ chúng mình lại bị nhiều ghẻ thế, mà tôi luôn chiếm ngôi vô địch. Có lẽ vì tuổi nhỏ, da mỏng nên bọn ghẻ tấn công tôi từ trong ra ngoài, từ đầu chí chân, không chừa một centimet da nào. Đầu thì nhọt nhỏ nhọt lớn, tay thì ghẻ nước ghẻ khô, còn hai mông quần thì lúc nào cũng như cưng cứng như mo nang vì mủ nước chảy đóng khô lại. Vậy mà mẹ An rất chịu khó chữa trị cho các con. Đến bây giờ khi đã trở thành mẹ, tôi cũng không hiểu được là mẹ An lấy đâu ra nhiều tình thương như vậy để chăm sóc chúng ta. Con tôi mới chỉ mọc mỗi một cái mụn nước nho nhỏ ở tay mà tôi cứ quýnh quáng không biết xử lý ra sao. Nhiều lúc nghĩ lại thấy mình còn chưa đền đáp được gì với công ơn của mẹ An, bác Viên và các cô bác trại trẻ. Lại quay về chuyện xưa, cứ mỗi chiều, mẹ An gọi các cháu lại xếp hàng để bôi thuốc ghẻ là tôi muốn chui xuống đất. Không nhớ tên thuốc là gì, hình như iốt hay cồn gì đó, mỗi khi mẹ An bôi vào là lũ trẻ lại nhảy tưng tưng xuýt xoa, còn tôi thì la hét hoặc khóc ré lên. Còn Mẹ tôi, mỗi lần lên thăm đều chảy nước mắt vì xót thương con bị ghẻ hành hạ. Nhưng mỗi lần đi tắm, hễ nghe mẹ ngon ngọt “lại mẹ thương nào” để dỗ tôi ngồi vào cái chậu nước lá xoan mẹ mới chế biến chữa ghẻ thì tôi lại khóc toáng lên, chạy vòng quanh cái giếng nhỏ ở đầu nhà ăn như chơi trò “trốn tìm” nhằm thoát khỏi tầm tay mẹ vì sợ xót. Chắc cho đến cuối đời tôi cũng sẽ không thấy cái gì xót hơn cái nước lá xoan chữa ghẻ ấy nữa.

Tôi còn một kỷ niệm sâu sắc nữa với mẹ An, đó là việc mẹ chữa trị thói mút tay của tôi. Từ bé tí tôi đã mắc tật mút tay. Chắc hồi đó bọn trẻ chúng mình đói ăn, nên tật mút tay khá phổ biến. Tôi thì nghiện món này từ khi chúa cho tôi sống trên đời này. Khi bé còn ở nhà với ba mẹ, tôi đã từng trốn trong rương (hòm to để quần áo) từ sáng đến chiều để chỉ ngồi mút tay, không ăn, không uống, mặc ba mẹ hoảng hốt kiếm tìm. Lên trại trẻ, tôi đã hơn 5 tuổi, nhưng vẫn sài món mút tay ngon lành. Mẹ An thấy mất vệ sinh quá nên ra sức dỗ dành tôi đừng mút tay nữa, nhưng tôi rất “kiên định” dứt khoát không từ bỏ món “khoái khẩu” nhất của mình. Nhiều lần khuyên, dỗ không được, mẹ An bắt đầu chuyển sang dùng “chiêu ác liệt” hơn. Mẹ bôi ký ninh vàng khé cả ngón tay cái mà tôi hay mút. Mẹ nghĩ rằng tôi sợ đắng mà không mút nữa. Nhưng chỉ vài phút sau, tôi chui ra một xó khuất tầm mắt của mẹ, rồi nhăn nhó liếm hết thuốc và lại ung dung ngồi mút ngon lành. Mẹ An thấy chưa ăn thua nên chuyển sang món bôi ớt. Tôi lại có cách đối phó bằng cách nhổ nước bọt đầy vào ngón tay đang sưng vì ớt cay và lấy váy lau sạch rồi lại mút say mê. Mẹ An giận lắm, lấy ngay dây váy tôi đang mặc để buộc hai tay tôi vào thành gường. Khi mẹ vừa khuất dạng, không rõ loay hoay lộn đầu, lộn đuôi thế nào mà một lúc cái miệng của tôi lại vẫn tiếp xúc được với ngón tay thân thương để lại mút chùn chụt. Mẹ An dùng “món võ cuối cùng” là dắt tôi ra cây chuối, cạnh cái miếu nhỏ gần nhà ông Huấn và phạt bắt tôi ngồi đó một mình trong buổi chiều xâm xẩm để doạ cho tôi sợ mà hết mút tay. Tuy “đầu gấu” tôi trong bụng có sợ, nhưng ”món tay” đã làm cho tôi trở nên dũng cảm hơn, tôi vừa nhấp nhổm mút tay, vừa chăm chắm nhìn vào cái hốc đen của miếu một cách cảnh giác. Cuối cùng, mẹ An phải “xin hàng” và tôi tiếp tục mút tay cho đến hết năm 7 hay 8 tuổi gì đó. Đến nay, tôi mới thấm thía rằng không nghe lời mẹ An nên tôi không thể tham dự giải “bàn tay hậu” vì đến tận bây giờ các ngón tay bàn tay trái của tôi vẫn còn cong queo và bé hơn hẳn bàn tay phải, đặc biệt, ngón cái thì to bè bè còn ngón út thì thành tật cong như con tôm nhỏ.

Từ đáy lòng, con xin mẹ An ở nơi suối vàng hãy tha thứ cho những gì con đã không phải với mẹ. Cầu chúc cho vong linh mẹ yên nghỉ thanh thản ngàn thu. Con ngàn lần cám ơn mẹ về những gì mẹ đã chăm sóc, dậy dỗ chúng con!

Trương Hải Đường

Cảnh cũ, người xưa...

Lời Ban Biên tập: Bài này đã được đăng từ ngày 06/10/2007. Bây giờ, sau khi có thêm một số thông tin hữu ích, chúng tôi đã sửa chữa đôi chút và xin đăng lại để các bạn cùng chia sẻ.
Chị Trương Hải Đường thuộc lứa sinh năm 1959 của Trại trẻ chúng ta, hiện đang là Cục trưởng Cục công nghệ thông tin của Tổng Cục Thuế.
Trong cuộc sống cũng như trong công việc, tiếp nối được truyền thống nền nếp từ ba má chị - bác Lê Dân, Hải Đường là một người năng động, xốc vác, rất chu đáo và trọn nghĩa vẹn tình (chúng tôi cảm nhận được điều này trong khi xem, nghiền ngẫm các câu chuyện của chị gửi đăng trên blog, từ Đôi mắt đổi màu, Câu chuyện “Ngày xưa”, Dạy con, Những bài học tuổi ấu thơ v.v…).
Xin giới thiệu với các bạn hình thức mới của bài viết này!


Chúng ta cùng cố nhớ lại, cho dù không còn thật chính xác!

Hồi ở trại trẻ, vì khá nhỏ tuổi nên tôi được xếp ở ngay tại nhà thờ họ … (Họ gì đó thì tôi quên rồi). Ở giữa là một khoảnh thềm vuông có 4 cột và mái ngói cổ kính. Mùa hè chim thường về làm tổ trên nóc mái. Có lần, một số anh lớn cố trèo lên bắt chim bị bác Viên phạt sợ phát khóc.
Bác Viên thường ngồi trên chiếc chõng tre nhỏ kê trên bậc thềm trước gian thờ.
Gian nhà phía bên phải kê các dãy gường của tôi, chị Oanh, Yến, Thuý, cậu Hiền “giữ của” và một số người nữa tôi không nhớ.
Giường của chị em chị Oanh liền với giường tôi nên mỗi tối, chúng tôi thường vén thông màn với nhau để ngủ cho vui. Có lần, giữa đêm có một người đàn ông lạ chui vào gường của chúng tôi. Tôi tỉnh giấc sờ thấy cái đầu tròng trọc lởm chởm tóc, sợ gần chết nhưng không cất nổi tiếng, mãi lúc sau chị Oanh mới phát hiện hét ầm lên làm cả trại tỉnh giấc và lão lạ mặt chạy mất tiêu.
Gian phía đối diện là giường mẹ con bác Bốn - Chị Tú, giường của chị em Minh Hiền - Minh Hồng và giường chị Khánh Như (hồi đó chị Như rất hay dầm tè nên phía dưới giường là một khoảnh đất luôn sẫm màu, nồng nồng).
Đối diện với đền thờ là gian bếp được lợp tạm bằng tre nứa, bàn ghế ăn cũng bằng tre. Mỗi chiều, mẹ An thường ủ bột mỳ vào chậu để sáng mai trộn bột làm bánh hấp cơm hoặc rán vàng cho các cháu ăn. Hôm nào bột ủ chưa chua là bột hấp cứng như cục đất.
Sau dãy nhà ăn, tôi nhớ là khu vườn, rồi đến con đường mòn nhỏ của làng. Qua đường là nhà cầu hai ngăn trên mặt ao. Mỗi lần đi vệ sinh là cả lũ 2-3 đứa thường rủ nhau đi cùng cho vui và còn thi xem ai bắn cầu vồng nước xuống ao được xa nhất (mà là con gái đấy nhé!).
Khu vườn là nơi gắn khá nhiều kỷ niệm với anh em tôi, nhất là hình ảnh chú ngan thối của anh Khánh Bẹt. Hồi đó, anh em tôi nuôi một con gà mái đẻ và một chú ngan. Ngày nào hai anh em tôi cũng bắt chị gà ra để thò tay vào bụng sờ xem đã sắp đẻ trứng chưa và rồi quẹt tay chùi vào áo, thất vọng vì trứng còn non quá. Còn chú ngan Thối của anh Khánh thì chắc nhiều người còn nhớ. Hồi đó, hình như anh Khánh sau khi đọc truyện “Quả trứng vuông” đã tự sáng chế ý tưởng lấy dây lạt thắt chặt 2 cánh chú ngan cho rụng đi để dồn thịt cho thân mình ngan béo lên. Chỉ sau vài ngày, cả trại trẻ bốc mùi vì 2 cánh thối rữa của ngan. Mỗi lần chú ngan lạch bạch đến gần là mẹ An tá hoả, không chịu nổi cái mùi của nó và lại ca một bài rày la anh Khánh.

Hồi đó, ba Lê Dân của tôi hình như là Bí thư Đảng ủy nên cụ rất “gương mẫu” hạn chế lên thăm con, mà chỉ thường gửi quà lên. Đến giờ tôi vẫn giữ được khá nhiều bức thư ba tôi gửi cho anh em tôi, trong những bức thư đó có cả những chiếc bánh trực đêm của ba, nhưng ba đã nhịn để dành gửi lên cho chúng tôi.
Đọc lại những bức thư đó tôi đã không cầm nổi nước mắt và càng thấm hiểu tấm lòng của người cha rất mực thương yêu con, đồng thời rất cảm phục thế hệ các cụ đã có những nghị lực sống phi thường, có một tư tưởng sống đáng kính phục. Ở thời đại này, tưởng tượng lại thời của các cụ mới thấy về nghị lực có lẽ đời con cháu còn xa mới bằng các cụ.
Hồi đầu, anh em tôi còn thấy tủi vì ít được ba mẹ lên thăm (mẹ tôi bận học tận trên Vĩnh Phúc), nhất là khi nhìn cảnh mẹ con cô Lục và Lộc “cộc đuôi” âu yếm nhau. Tôi vẫn nhớ như in đôi mắt to, đen ươn ướt của anh Lộc khi ngẹo đầu làm nũng trên vai mẹ và thầm ao ước mình cũng được mẹ bế như vậy.
Nhưng lâu rồi cũng quen, anh em tôi cũng không còn cảm thấy buồn nữa. Mỗi chủ nhật, các anh chị náo nức chạy theo con đường nhỏ hai bên là hàng rào bằng cây duối xanh mướt sau nhà bác Huấn để ra con đường lớn đứng ngóng bố mẹ lên thăm thì anh em tôi cũng háo hức chờ được nhận những món quà ba mẹ gửi như: lọ magi, hộp đường, bánh và món thịt viên băm trộn với mắm (một món miền Trung mà hiện có bán nhiều ở chợ Hàng Bè).Tôi nhớ mỗi buổi tối ở trại thật vui. Lũ trẻ chúng tôi thường kê gối sát tường rồi trồng cây chuối xem ai trồng được lâu hơn. Rồi tập hát, chúng tôi thi nhau ngân xem ai dài hơi hơn theo đoạn cuối của bài hát “Chiếc đàn Ta lư” mà nghệ sỹ Tường Vi thường hát: “đàn em reo ca …a…a…a…a….a….., ới đàn ta lư, rừng núi quê ta….a…a…a…a…, từng bừng reo ca”. Rồi tập múa, các chị lớn hơn tự dậy, tự sáng tác các điệu múa cho chúng tôi. Hồi đó, nhìn Minh Hồng – con bác Hoàng Tùng mặc chiếc váy nilon hoa phớt xanh, phớt hồng múa thật đẹp, trong trí tưởng tượng của tôi, chiếc váy đó chỉ có trong chuyện cổ tích. Vì vậy, bọn con gái cùng lứa chúng tôi thèm có chiếc váy đến “rỏ rãi”, còn tôi thì nhiều đêm nằm mơ thấy được bà tiên ban cho mình chiếc váy giống hệt, tỉnh dậy tiếc quá, cố ngủ để mơ tiếp mà không được. Bây giờ, con gái tôi có hàng chục chiếc váy còn đẹp hơn thế mà nó hoàn toàn dửng dưng. Thế mới biết, thế hệ chúng ta hạnh phúc hơn thế hệ ngày nay. Cuộc sống có khổ mới biết sướng, có gian truân mới biết hạnh phúc. Bây giờ sướng quá mà không biết là mình sướng – đó chính là những bất hạnh của thế hệ con trẻ thành phố ngày nay.
Xin tạm dừng dòng hồi nhớ tại đây vì còn phải đi đón con đi học về. Hẹn lúc rỗi sẽ lại nhớ tiếp.

Rất muốn các anh chị, các bạn cùng vẽ lại bức tranh Ngày Xưa của chúng ta!

Trương Hải Đường

Ghi thêm của Ban Biên tập: Sau khi bài này được đăng, chị Huỳnh Ngọc Thụy đã đính chính lại cho chúng tôi, nhà thờ mà Trại trẻ chúng ta ở nhờ chính là nhà thờ họ Phùng, do bác Phùng Hữu Lê làm thủ đền.
Ảnh 1: Chị Hải Đường đứng giữa các anh Hoàng Nam, Tương Lai và Minh Quang (ngày 23/9/2007).
Ảnh 2: Hải Đường ngày bé, xấu xí và ghẻ đầy người, bắt đầu rèn luyện sự "cứng đầu" từ khi xa ba mẹ.
Ảnh 3: Hải Đường nhận danh hiệu Lãnh đạo CNTT xuất sắc khu vực Đông Dương (2006)

21/10/07

Quà "xế"

Cho đến tận bây giờ, tôi vẫn thấy vô cùng yêu thích ăn trứng vịt luộc, yêu thích hương vị của nó mỗi khi lột vỏ, không chỉ vì mùi thơm thơm hấp dẫn, mà còn vì mùi trứng luộc nhắc tôi nỗi niềm ngày sơ tán...

Tôi còn nhớ mãi, mỗi buổi trưa khi ngủ dậy, mẹ An lại làm cái việc phát quà trưa, hay như bây giờ nhà trẻ thường gọi là "ăn xế" bằng cách điểm danh từng tên trại viên, ví dụ, "Khánh Như", "Lộc cộc đuôi", "Kim Yến" hay Oanh, Thúy gì đó... bằng cái danh sách ghi không giống ai và có lẽ chưa có ở đâu bao giờ, đó là đọc tên trên quả trứng... Mỗi người được xướng tên, sẽ nhận được một quả trứng chín còn dính cơm, quả trứng thơm thơm mùi cơm, khi lột vỏ lộ ra lòng trắng trắng bóc, màu đỏ cam của lòng đỏ ửng lên bên ngoài. Quả trứng sau khi lột vỏ sao mà trông ngon đến thế, lòng trắng thì sần sật, lòng đỏ bùi bùi, béo ngậy. Người nào được gọi tên thì sung sướng lắm, nhưng cũng có người được gọi hoài, ngày nào cũng gọi thì lại ngán, đón nhận rất thờ ơ. Riêng tôi, tôi đã rất háo hức với món quà "xế" ấy, theo chân mẹ An từ lúc mẹ An chọn quả trứng, rửa sạch sẽ xong, mẹ An lấy cái viết mực cẩn thận viết tên từng người được ba mẹ gửi trứng luộc, sau đó canh cho lúc cơm gần cạn, mẹ An hay cô Thi sẽ thả trứng vào hấp lên. Khi cơm chín, trước lúc phát cơm, mẹ An lấy trứng ra xếp vào rổ để qua một bên, cất đó chờ đến lúc sau khi ngủ trưa sẽ phát. Hàng ngày, hàng ngày, mẹ An làm công việc ấy một cách cẩn thận dưới sự theo dõi say sưa của tôi...

Món quà xế thứ 2 cũng thường được phát theo cách tương tự là món bánh qui. Dù là chiến tranh gian khổ thế, ác liệt thế, cái gì cũng thiếu thốn thế, nhưng sao tôi vẫn có cảm giác cái bánh qui ngày xưa ngon hơn bây giờ, thơm hơn bây giờ rất nhiều, bánh hình vuông, vàng rơm, làm từ khuôn bánh có những bông hoa đơn giản nhưng làm cho chiếc bánh qui thêm hấp dẫn con trẻ. Chỉ mới đưa gần lại miệng thôi, chưa cắn mà nước miếng đã tứa ra vì mùi thơm của trứng gà, của bơ sữa, cần vào cái bánh dòn rộm, miếng bánh tan ra trên lưỡi, ngon đến tận giờ còn thấy ngon... Mà càng ngon, càng thèm hơn nữa khi anh em chúng tôi thật hiếm khi được mẹ An gọi tên sau khi ngủ trưa, chỉ đơn giản vì nhà chúng tôi có tới 4 anh chị em, ba mẹ chắc lo không xuể, thử nghĩ xem, nếu 1chục trứng, nhà con một ăn được 10 bữa thì nhà 4 con chỉ ăn được 2 bữa rưỡi mà thôi, nghĩ lại mà thương các ba mẹ, thương các anh em mình quá. Món quà xế nhỏ nhoi như thế nhưng cũng không nhiều người trong trại trẻ được nhận. Bây giờ, mấy đứa trẻ chịu ăn quà xế bằng cái bánh qui hay bằng quà trứng luộc như ngày xưa?... Ôi cái ngày xưa ấy!

Mà tôi chợt nhận ra, những kỷ niệm này ám ảnh tôi hay các bạn cùng lứa tôi nhiều hơn các anh lớn, vì các anh chị lớn không ở nhà chung, mà ở trong nhà dân, nên kỷ niệm của các anh chị có thể là khác với lứa tụi mình. Cũng dễ hiểu tại sao mà mới chỉ thấy tụi mình ôn nghèo kể khổ, có phải vì tụi mình còn quá nhỏ để kiềm chế lòng thèm ăn (chứ không phải tham ăn đâu nhé), thèm được vui chơi, thèm được giang nắng trốn ngủ trưa, đi tuốt lúa đòng đòng... Nên mỗi lần có bất cứ sự kiện gì thỏa mãn nỗi niềm khao khát con trẻ ấy là nhớ mãi, nhớ đến tận hơn 40 năm sau vẫn còn nhớ.

Còn các anh chị thì sao? Sao các anh chị mình kể ít thế nhỉ?

Thụy Huỳnh

Vũ Quốc Lộc , tại Hà Nội

Vũ Quốc Lộc vùa tiết lộ một tin rất hay giữa giữa những ngày tháng 10 tại thủ đô : anh đã từng viết nhật ký từ thời trại trẻ và hiện nay còn giữ cuốn nhật ký đó. Thật là điều kỳ diệu cho những ai muốn sống lại ký ức thời trẻ thơ. Hãy chờ nhé, BLL sẽ có cuốn nhật ký đó và tùy theo sự cho phép của chủ nhân, sẽ có trích đoạn hay đăng cả trên Blog. Trong cuốn nhật ký này, Vũ Quốc Lộc sẽ kể cho chúng ta nghe về cái hang ở Tuy Lai, về chuyện anh Dũng con cô Bình Định (đã hy sinh anh dũng trong kháng chiến chống Mỹ) đã lấy thân mình che chở cho các em khi bom Mỹ rơi ra sao. Chuyện cái giếng có phiến đá để giặt ở giữa, chuyện tình bạn giữa Lộc, Hoàn, Chân, Giao…

Lộc còn làm thư ký thường trực BLL Trương Việt Khánh giật mình khi anh cung cấp thông tin của 2 cựu thành viên nữa là Lê Hà, Lê Hóa con ông Lê Kiều. Lê Hà đã mất trong SG, Lê Hóa hiện giờ chưa ai biết tung tích ở đâu, nếu anh Hóa đọc thông tin này đề nghị liên lạc ngay với BLL.

Như vậy, thêm Lê Hóa, trại của chúng ta đã có con số 101 người.

Vũ Quốc Lộc là một doanh nhân đã từng bôn ba khắp châu Âu, đặc biệt giờ đây anh đang say sưa khám phá thị trường châu Phi. Ai có ý định đi châu Phi mà khó khăn visa hãy liên lạc ngay.

Mời các bạn vào Trang hình ảnh hoặc xem bài chi tiết trực tiếp ở đường dẫn này


Ảnh trong bài do Lưu Bình chụp (từ trái sang phải): Minh Quang, Việt Khánh, Hiếu Dân, Vị Hoàng, Quốc Lộc, Minh Hoàn và Quốc Phong lúc khoảng 20h, tại nhà hàng Du thuyền (hồ Thiền Quang)

16/10/07

Chuồn chuồn ớt và chuồn chuồn kim...

Chào các anh chị, cùng mọi người ở Trại trẻ Báo Nhân Dân!
Em là Điệp con bố Quỹ, mẹ Nghệ.
Sau khi xem các bài viết và hình ảnh của tất cả mọi người trong buổi gặp mặt (23-9), em thật sự xúc động và rất tiếc là không được tham dự.
Nhìn hình em nhận ra chị Hoài Nam, chị Phương Liên, chị Bình, chị Phương, chị Oanh, Yến. Các chị vẫn vậy. Còn Hồng, Điệp vẫn nhận ra, chỉ có Hải Đường là hoàn toàn Điệp không hình dung nổi. Hồi xưa bọn mình cùng lứa học chung với nhau, cả Ngọc Thụy, Thủy Tiên nữa nhỉ.
Một thời để nhớ
Xem tấm ảnh ngôi nhà thờ họ, nơi mà Trại trẻ đã từng cư ngụ tại đấy, tôi nhớ hết. Góc nhà, nơi để cái tủ đựng bánh kẹo mà bố mẹ gửi lên, mỗi người một hộp đều có tên không ai lấy nhầm của ai. Cạnh cái tủ là cái cửa nhỏ đi ra một khoảng sân rộng. Một lần chú Tuất Việt, bố của chị Ninh Hà đi B trở ra Bắc, lên sơ tán thăm chị Ninh Hà, cả trại tập trung ở cái sân ấy để nghe chú Tuất Việt kể chuyện miền Nam. Góc giường trong cùng nơi tôi ngủ, phía bên ngoài là gia đình của cô Huỳnh.

Nhớ hồi đấy có đợt tiêm chủng, cô y tá của trại dùng ống trích loại mới. Tôi còn nhớ là nó bằng sắt sáng loáng trông hiện đại lắm, cứ bấm một cái là xong không thấy thay kim gì hết, thế là gần như cả trại bị áp xe. Tôi cũng không nằm ngoài số đó. Thấy bị như vậy tôi thích lắm, vì sẽ được về Hà Nội chữa, ai dè không được về, lại bị mẹ An dắt một đám đi xa lắm, hình như sang bệnh viện nào đấy để rạch ra làm thuốc. Đến bây giờ vết sẹo vẫn còn sâu hoắm. Sau đấy, cô y tá bị nghỉ việc, và thế là cái bát ăn cơm nghe nói là bằng pha lê của cô ấy bị đập mãi mới bể, mọi người chia nhau mỗi người mấy mảnh cho vào lọ penixilin nhỏ xíu và cảm thấy thích lắm vì nó đẹp (hình như hồi ấy bọn con gái đứa nào củng có 1 lọ). Tôi nhớ nhất cảnh mùa đông trời lạnh buốt, mưa phùn, đường thì trơn mà bọn tôi hồi đấy đang học lớp 2, lớp 3 thì phải, cứ hai đứa một cái sọt, cầm theo hai cái cây tre nhỏ, đi theo mấy bác dắt trâu bò đi làm đồng từ tờ mờ sáng, chỉ để tranh nhau hót cái mà con trâu, con bò nó thải ra, để nộp cho nhà trường trồng cây. Chỉ vì tranh nhau mà tôi bị té, người dính đầy bùn, nhưng vẫn thích vì đã tranh được. Còn quần áo dính bùn, khô thì tự rụng, vì trời mưa ai giặt quần áo cho, mà giặt thì cả tuần mới khô, lúc đó cuối tuần các cô mới lùa một đám trẻ con ra giếng “để tổng vệ sinh”. Hồi đó, buổi sáng mỗi lần đi học là tôi sợ nhất, một là bị bọn trẻ con ở làng nó đuổi chó ra cắn, hai là vào đến cổng trường lại có hai đứa ở làng đứng chặn hai bên cầm roi, vừa quất vừa nói “sơ tán ăn bám nhà quê”. Biết là đau đấy nhưng vẫn phải cắn răng chịu.

Đúng là chỉ có những đứa trẻ phải đi sơ tán mới thấu hiểu những sáng chủ nhật ngóng mẹ lên thăm như thế nào. Tôi còn nhớ, từ Trại trẻ đi qua một con đường dốc tới một cái ao, ở đó có rất nhiều cây bưởi hoa trắng thơm ngào ngạt. Bọn trẻ con thường rủ nhau trèo lên mấy chẽ cây, nhìn về phía bờ đê, khi thấy một bóng nhỏ từ xa xuất hiện tranh nhau đoán xem đó là mẹ của ai. Mong mãi, mong mãi, tới gần trưa mới chịu về vì cứ sợ biết đâu mẹ lên trễ, mình về thì không được nhìn thấy mẹ từ xa.

Lúc đầu, bốn chị em tôi Hồng, Mai, Hà, Điệp cùng với chị Diệp, chị Nam, chị Liên con cô Bích Hà, rồi Chi, Anh con chú Chính Yên cùng một nhà (hồi đấy chị Chi hay khóc mà lại khóc dai, tiếng khóc không nghe hu...hu mà nghe như là hến...hến, nên cả đám cứ xúm lại chọc cho chị Chi khóc). Sau này các chị lớn của tôi đi học chỗ khác, còn tôi vẫn ở Trại trẻ nên được chuyển về ở trại chính. Lúc đó thật sự bước vào vòng kỷ luật, mỗi trưa bác Viên đi kiểm tra từng đứa một bắt ngủ, không còn được dang nắng đi bắt chuồn chuồn ớt và chuồn chuồn kim nữa…

Vài dòng hồi tưởng để mọi người cùng nhớ một thời đã cùng nhau trải qua.

Ngô Phương Điệp

Đồng nghiệp

Chưa có gì đáng gọi là một mối tình công sở- nghĩa là chưa thân thiết quá- chỉ là như tất cả mọi người, trong cùng một nhóm đi ăn trưa với nhau (thường xuyên), đi liên hoan, đi karaoke cùng nhau (thỉnh thoảng), dăm ba lần đi cùng xe máy một cách vô tư, ai nhìn thấy cũng không ngại ( cây ngay không sợ chết đứng đã đành, chẳng qua vì lòng chưa thấy gợn tý teo nào cái gọi là tình cảm riêng tư)... Chia nhau công việc trong phòng, rồi tâm sự với nhau (cũng thường xuyên) những chuyện tầm tầm trong gia đình, đại loại như con cái đạt danh hiệu gì ở lớp, bố chồng mẹ chồng, bố vợ mẹ vợ dạo này đau ốm ra sao, hàng xóm mới tậu được một ti-vi màn hình phẳng của Trung Quốc, sê- cần- hen thôi mà cực nét...v.v, tóm lại chỉ có thế. Chị không tin được rằng lại có ngày về nhà bỗng thấy nhớ nhung đồng nghiệp. Cũng có thể không hẳn là nhớ nhung, không ai gọi là nhớ những người ngày nào đến chỗ làm việc cũng gặp, cho đến tận khi tiễn nhau về hưu mới thôi, nhưng rõ ràng là có âm thầm nghĩ tới hay vô thức nhắc lại một lời nói, một cử chỉ nào đó của người ấy, vu vơ thế cũng gần gần với nhớ
Mà nhớ, thì không phải lỗi hoàn toàn ở chị. Tại anh dạo này hay tỏ ra chăm sóc chỉ hơn bình thường. Anh quan tâm đến màu áo chị mặc, sách chị đọc. Cơm hộp văn phòng, có gì đâu, dạo này bao giờ anh cũng chọn những món mà anh biết làm cho chị dễ nuốt hơn, đi hát karaoke cũng ghi những bài chị hát được hoặc muốn nghe, điều hoà trong phòng làm việc không dám hạ nhiệt độ thấp quá vì sợ chị ho...Nói chung là cảm động! đàn bà ở nhà nếu ít được sự quan tâm của chồng, đến cơ quan có ai đó chăm sóc một chút, một chút chút nhỏ nhất, thế nào cũng có ngày trái nắng trái gió bỗng dưng cảm thấy một nỗi xao xuyến không hiểu được len lén chuồn vào tim. Rồi có đi có lại, chị cũng bày tỏ với anh những cử chỉ ân cần và dịu dàng tương tự. Đàn ông ở nhà bà vợ hay cáu bẳn, quản lý khắt khe, đến cơ quan gặp ai đó dịu hiền nhường nhịn, thì nhìn là biết ngay thái đó muốn bao bọc che trở...nhưng mà cũng mới chỉ thế, thế thôi, cho ngày đi làm vui hơn, cho cuộc sống nhẹ nhàng hơn. Đôi khi, chị cảm thấy không khí trong phòng làm việc dịu dàng và êm ả, chị có lý do để sáng đi làm ăn mặc cần thận hơn một chút, thoa son đậm hơn một chút hay không ngần ngại chấm vài giọt nước hoa vào sau tai. Đàn bà nhiều khi phải có cớ mới chịu chăm sóc mình
Sáng nay đi làm, chị đã chấm vài giọt nước hoa như thế, áo mới cổ hơi rộng và tóc buộc cao, chị thấy mình trẻ trung trong gương, trẻ trung đến mức dường như có thể đủ mạnh mẽ để làm được một việc gì đó khác với mọi ngày và chị muốn mỉm cười với mình.
Sáng nay xe anh ấy hỏng, vợ anh ấy và anh ấy đi chung xe đến cơ quan. Họ chạm trán ngay cửa. Vợ anh ấy và chị cười tươi với nhau, đã gặp mấy lần rồi mà. "Chào!" anh ấy bảo, giọng rất nhạt, " Sao hôm nay đi làm sớm thế?." " à vâng , đưa con đi học nên đến sớm", chị thấy giọng mình cũng nhạt hoét. Nghe đúng là hoàn toàn khách quan và dửng dưng, giọng của hai người qua đường tử tế nhưng không quen biết, như chưa từng bao giờ quan tâm đến cơm hộp văn phòng, karaoke, sách vở hay điều hoà nhiệt độ
Thì thế, chỉ là đồng nghiệp thôi mà

Hà Phạm

12/10/07

Được lúc rảnh rỗi!

Gió heo may thổi dạt một nhóm Trại Trẻ vào phía Nam nhiều gió biển và nắng rát, đây có thể là nhóm ồn ào lắm chuyện nhất, rất nhiều kỷ niệm. Họ im lặng mãi, rồi người đầu tiên bước lên diễn đàn: Huỳnh Ngọc Thụy!.

Sau đây là một lô ký ức tìm thấy khi chị “được lúc rảnh rỗi” (như tiêu đề chị gửi cho TTSTBND):

Bây giờ vào những lúc rảnh rỗi hiếm hoi của mình, tôi lại có thêm cách thư giãn là vào blog của trại trẻ như muốn tìm về tuổi thơ ấu ngày xưa. Các anh chị và các bạn viết rất hay, rất dí dỏm, sinh động, đúng thật “con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Tôi cũng thử tập tành, nhớ lại và chép ra đây gọi là góp nhặt kỷ niệm cùng các anh chị bạn bè…

Ngày đó tôi chỉ mới gần 6 tuổi, cái tuổi sắp vào lớp 1 bây giờ, thế mà đã phải xa mẹ, xa rời tổ ấm, thay mặt mẹ để chăm sóc đứa em nhỏ hơn mình 1,5 tuổi. Nhớ mãi điểm đầu tiên đến sơ tán của trại trẻ Báo nhân dân là Tuy lai, tôi vẫn nhớ trại trẻ đóng quân ngay nhà đầu làng, trống hoác, những trại viên nhỏ tuổi sẽ ở đó, một số anh chị lớn hơn thì vào ở nhà dân bên trong làng. Điều này làm tôi ghen tị nên nhớ tới giờ vì tôi chỉ thích được ở cùng các anh chị lớn, chắc chắn sẽ có nhiều trò hay thú vị hơn là đám nhỏ tụi tôi. Chỉ mới vừa tới nơi ngày hôm trước, hôm sau tôi cùng các bạn đã phải một phen chạy máy bay kinh hoàng, nhớ lúc đó trại trẻ có Cô Bình Định, mẹ An, cô Thi… Máy bay tới, tiếng rít của nó thật gần, đinh tai nhức óc, mẹ An kêu các chị lớn dẫn các em nhỏ (là tôi gần 6 tuổi, Hoa Lê 4 tuổi rưỡi và các em nhỏ khác mà lúc đó tôi chưa kịp làm quen nên chẳng nhớ tên) chạy ra giao thông hào, cách trại chỉ là một khoảng sân nhỏ, vậy mà chị em chúng tôi phải 2-3 lần nằm xuống tránh máy bay lượn trên đầu, rồi lại ngóc lên chạy tiếp. Nhớ lúc ra sát đến bờ tường cạnh giao thông hào rồi mà mẹ An còn kêu lên: “nằm xuống” vì máy bay đã quay lại, mấy chị em lại hấp tấp nằm ép sát vào bờ tường, chị Ninh Hà đã ôm một em nhỏ vào lòng che cho em, hành động đó của chị làm tôi nhớ mãi và có lẽ chính vì thế trong suốt thời gian đi sơ tán và cả sau này nữa tôi rất thích chị và luôn tìm cách học theo chị. Ơn trời là lúc đó còn quá bé để hoàn toàn tin tưởng vào cái giao thông hào trước mặt, nên chẳng biết sợ, chẳng nghi ngờ gì, chẳng biết rằng chỉ một quả bom thì xong hết, không cần phải chạy đi đâu, chẳng giao thông hào nào cứu được. Nhưng là nói thế thôi, chứ lúc đó bảo chạy là chạy, hô nằm xuống là nằm ngay tắp lự mà chẳng cần hỏi là tại sao nằm, tại sao chạy…có biết vì sao đâu. Ở Tuy lai, ấn tượng của tôi là cái quạt “trần” bằng chiếu mà mẹ An, cô Định giăng lên trên trần nhà, rồi cô Định nằm ở góc nhà nắm sợi dây nối với cái “quạt” chiếu, giật qua giật lại, phe phẩy cho mát cả đám trẻ nằm sắp lớp bên dưới, nhưng đêm về thì các cô cũng không thể thức suốt đêm quạt cho tụi tôi được. Thế là tôi đã trải qua một đêm thức trắng, Hoa Lê còn quá nhỏ, đòi chị quạt cho suốt đêm, hễ tôi buồn ngủ quá, vừa ngủ thiếp đi, tay rũ xuống không quạt nữa là Lê lại khóc lên đòi quạt. Cứ thế suốt đêm, có lẽ đến gần sáng tôi mới ngủ được. Ấn tượng quá nên tôi nhớ tới giờ. Bây giờ nghĩ lại, đêm đầu tiên mình thức trắng lại không phải là thao thức vì tương tư, cũng chẳng phải vì ở độ tuổi bắt đầu biết day dứt, trằn trọc, mà chính lại là đêm đầu tiên xa nhà đến nơi sơ tán, thay mẹ lo cho em khi chỉ mới vừa 5 tuổi rưỡi, cái tuổi mà bây giờ nếu là con mình thì nâng như nâng trứng, mới hiểu lòng cha mẹ mình ngày ấy thắt ruột thắt gan thế nào khi gửi các con nhỏ thế đi sơ tán, mới biết là hồi đó mình khổ thật, khổ quá sức tưởng tượng, thế mà trong gian khổ ấy, tất cả anh chị em mình vẫn rất vui vẻ, văn nghệ văn gừng, học hành giỏi giang, để lại một ký ức tuổi thơ biết bao kỷ niệm mà không phải thời nào cũng có được.

Tuy Lai lúc đó quá nguy hiểm nên thời gian ngắn sau là chuyển đi nơi khác. Bây giờ nhớ lại chỉ vài hình ảnh rất lờ mờ, một con đường mòn, một cái miếu-hay là đình -đầu làng, vài cái cây, ruộng lúa dựng nên hình ảnh một miền quê xơ xác. Một hình ảnh nữa tôi còn nhớ là chiều chủ nhật sau khi thăm trại sơ tán, chú Lê Dân (chú Ngô Lê Dân) và chị Giang con bác Thịnh cùng về, chỉ ra đến cánh đồng lúa là mưa gió mịt mù, lúc đó vì lo lắng dõi theo chú và chị Giang, tôi cứ thắc mắc mãi, sao mới thấy 2 bóng người 2 xe đạp mà bây giờ lại chỉ còn một bóng? (mưa to quá nên đứng sát lại nhau). Có lẽ đó là điểm khởi đầu của tình yêu 2 người chăng? Thật tiếc sau này “anh” chị không còn đi chung nữa…

Tôi cũng không nhớ rõ lắm mình bắt đầu học lớp 1 ở đâu, hình như ở Thống nhất, là nơi có nhà thờ họ Phùng, mà Hải Đường đã tả lại rất rõ, tôi ở dãy đối diện với Hải Đường, nhớ là có Thủy Tiên, chị Thanh Bình, chị Việt Phương, Khánh Như, hình như H.Đường nhớ lộn, vì tôi nhớ chị Như ở cùng dãy tụi tôi, gần Thủy Tiên…. Ngày ấy tập văn nghệ, tôi và M.Hồng múa bài con bướm là con bướm xinh, là con bướm là con bướm hồng, ..bướm ơi là bướm mời bướm hãy về đây chơi…, múa say sưa đến nỗi hết bài rồi, lẽ ra phải dừng lại cho tiết mục khác nhưng tôi và Hồng đã quyết định múa tiếp một lần nữa để “phục vụ”, mấy bạn hát cho chúng tôi múa ngơ ngác nhưng rồi vẫn hát tiếp cho hết bài, sau đó xuống sân khấu mọi người xúm lại trách chúng tôi làm mất thời giờ của mọi người, làm chúng tôi buồn mãi vì mọi người không hiểu lòng “nhiệt tình phục vụ” của mình. Một hình ảnh nữa tôi vẫn nhớ là hình ảnh Hải Đường tự dung túm chặt ống quần phía trên đùi, khóc ré lên, la cái gì đó mà không ai nghe được, mọi người xúm lại hỏi han, dỗ dành Đường nói lý do nhưng chỉ có tiếng khóc dữ dội hơn, mãi sau mẹ An dụ được H.Đường cho mẹ An biết bên trong ống quần mà tay Đường đang nắm chặt là gì, Đường nói trong tiếng nấc “ có con gì ở trong quần cháu, híc..híc”, mẹ An giở ống quần lên rồi bảo Đường thả tay ra, một con chuột phóng ra làm cả vòng con nít hiếu kỳ la hét, dạt ra ngoài hết. Một trận nhớ đời phải không Đường?

Hồi nhỏ hay ra giếng tập văn nghệ, tôi thèm đi xem lắm nhưng em tôi thì đòi đi ngủ sớm nên những cuộc vui đó tôi ít được tham gia, mà ra giếng chơi rồi thì Hoa Lê hay đòi về sớm, tôi lại dũng cảm dẫn em về dù phải đi qua mấy bụi tre kẽo kẹt, sợ ma quá chừng luôn.Có lần dẫn em đi tiêu ở cái hố xí 2 ngăn toàn ruồi nhặng, phía trước mặt là cái mương có bèo hoa dâu và giấy vệ sinh vứt dơ bẩn, chân Hoa Lê bị “cước” sưng phồng to nên bước khó khăn, vừa bước lên bậc nhà vệ sinh thì ngã ngửa ra sau, lăn tòm xuống mương trước mặt, tôi đã hoảng hốt kêu to “có ai không, cứu em cháu với” thì có chú gì nhà bên cạnh trại trẻ đang ngồi bên bờ ruộng chạy qua lôi em lên, một phen tắm rửa kỳ cọ ra trò mà 2 ngày sau mới “khử mùi” hoàn toàn…

Con đường làng dẫn tới trường những ngày mưa thường trơn trợt, xe trâu đi để lại trên đường những lằn ngoằn nghèo, tôi nhớ những ngón chân nhỏ xíu của mình cứ bíu chặt xuống mặt đường vì sợ bị vồ ếch. Bạn cùng học khóa lớp 1 ngày ấy là Thủy Tiên, Minh Hồng, H.Đường, Hiếu Nam, Tương Lai, mỗi lần đi học thường phải rủ nhau đi cùng vì sợ bọn ở làng ra “trấn lột”, sợ cả những con ngỗng cổ dài ngoẵng, kêu kíu kíu đuổi theo làm chạy toán loạn, sau này đi chung Hiếu Nam, bạn ấy đã đứng ra xua đuổi lũ ngỗng cho chúng tôi cùng đi qua, từ đó đến giờ chẳng gặp lại các bạn cùng lứa, ao ước khi nào cùng nhau về thăm lại nơi sơ tán ngày xưa, huyện Chương Mỹ, Quốc Oai, Hà Tây…ngày đó thú vui của trẻ em trại trẻ là chủ nhật nào cũng ra đê ngóng mẹ, hễ có bóng người xuất hiện là đoán già đoán non xem là ai cho đến khi dự đoán trở thành hiện thực, ngày mẹ đạp xe lên thăm, mừng vì được thoát ly khỏi cái đám trẻ còn lại vẫn đang trông ngóng, hãnh diện vì có mẹ thăm, giờ mẹ về, đứng dõi theo khi cái bóng mẹ chỉ còn là cái chấm nhỏ xíu, thương cái bóng mẹ lẻ loi giữa con đường rộng…lúc mong mẹ không thấy, đến tận trưa mà vẫn ngóng trông không chịu về ăn cơm, hy vọng mẹ đến muộn vì lý do nào đó…

Đã hết giờ “thư giãn”, còn nhiều chuyện nữa nhưng xin hẹn khi khác. Chỉ tiếc là lúc đó tôi còn quá nhỏ nên chẳng nhớ nhiều như các anh chị, vài chuyện vẩn vơ chép lại để nhớ. Lần sơ tán thứ 2 thì đã lớn hơn, nhớ nhiều hơn, mà cũng nghịch ngợm hơn, tôi sẽ từ từ nhớ và kể, chỉ mong được chắp thêm vào bức tranh trại trẻ cho thêm màu thêm sắc, thêm sinh động…

Huỳnh Ngọc Thụy

11/10/07

Bác ấy

Súp củ cải đỏ, sa lát Nga, sườn cừu nướng, bánh mỳ đen…tất nhiên rồi, thêm một smetalla nữa, một bắp cải cuộn, một đĩa pho mát sợi, một con cá Astrakhan, bánh mỳ đen, bơ, pho mát sợi, một chai Zenka để lạnh, nước khoáng. À, xúc xích Nga, bơ và bánh mỳ đen…
Mặt bàn ăn đã đầy chặt. Chúa ạ, có hai mẹ con, ăn hết làm sao ngần ấy thứ, người ngoài không thể tự hỏi- mà con bé , rõ là mới đi học về, khăn quàng đỏ vừa tháo ra cất vào cặp, hình như không thích hợp với những món ăn vừa gọi. Nó hỏi mẹ có cơm và trứng rán không. Đây là quán Nga con ạ, mẹ nó trả lời dịu dàng, trứng có thể có, nhưng tráng bằng bơ, Để mẹ hỏi xem có món trứng rán bình thường không. Tại mẹ lâu rồi không rán trứng cho con ăn, nên con thèm trứng. Con bé bảo, mà sườn cừu nướng, phomát… mấy món khó ăn đó bác ấy lại thích hả mẹ? Bác ấy sống ở Nga, Liên xô cũ ấy, một thời gian rất lâu, nên nhớ các món ăn Nga, mẹ nó trả lời. Ai đó sống qua một thời gian thế nào thì nhớ những món ăn thời đó đúng không mẹ? Như con nhớ dạo còn bố mẹ hay nấu cho con món canh riêu cua. Quán này có món canh riêu cua không ? Có thể có, mẹ chưa thử, mẹ nó vẫn nói bằng giọng dịu dàng, nhưng đây là quán Nga, con thử các món ăn Nga đi Con sẽ thử, con bé trả lời bằng giọng quả quyết, chắc bác ấy sẽ thích, có điều là bác ấy đến muộn quá. Con tưởng chỉ có bố ngày xưa mới thế…
Đàn ông mà con, mẹ nó trả lời nó như với người ngang hàng. Một nét mặt không buồn không vui. Câu trả lời ấy quả thật đáng chú ý, nó ngân lên xót xa trong một quán ăn 24/24 tiếng văng vẳng điệu Kachiusa. Đàn ông mà, biết được đàn bà thời chiến hay đàn bà thời bình không có những nỗi đợi chờ dằng dặc ngang nhau. Gần hết buổi trưa đã trôi qua, con bé ăn tạm hai lát bánh mỳ đen với muối, một cốc sữa chua và một cốc nước khoáng- con no rồi ạ- nó bảo mẹ nó, bác ấy vẫn chưa đến, mặt bàn ăn đầy ắp, mẹ nó chưa đụng vào một miếng nào- bác ấy bận quá, hôm nay họp công ty- Cũng bận như bố ngày xưa đúng không mẹ? Không, khác lắm con ạ. Bác ấy hiền hơn bố, không hay cáu gắt và không uống rựơu, chỉ có điều, bác ấy cũng bận. ừ, cũng bận, hôm nay bác hẹn mẹ con mình mười hai giờ mà giờ vẫn chưa đến được thì chắc là bận lắm.
Tất cả đàn ông đều bận,chỉ mẹ con mình là phải chờ đợi thôi- con bé nói, như người lớn. Mẹ ơi, 2 giờ con phải vào lớp rồi, mẹ chờ bác ấy một mình nhé.Con sẽ tự đến lớp mẹ ạ…
Bản Kachiusa vẫn văng vẳng lúc con bé một mình ra khỏi quán.

Hà Phạm

10/10/07

Bờ sông gió

Bờ sông hun hút gió. Điều này quá quen, không chỉ bởi câu tả cảnh quen, như trong một bài văn nào đó, mà vì bờ sông bao giờ chẳng gió, nhất là một ngày đầu đông như thế này.
Bờ sông hun hút gió và lại còn hoang vắng nữa.
Quán nhậu chẳng có ai. Đang là buổi sớm đã đành, mà có nhậu mùa này người ta cũng muốn chui vào một nhà hàng ấm cúng, chứ ít ai đi ra bờ sông nghe gió rít trên rặng tre. Những dãy bàn ghế vắng không, bụi phủ và lá tre khô chốc chốc lại bay vèo qua mặt. Cô bé chạy bàn nói giọng miền trong, đưa cho anh chai ruợu và đĩa lạc xong cứ thập thò chờ gọi thêm. Lát nữa cũng phải gọi mấy đồ ăn gì đó cho cô bé yên tâm, nhưng giờ thì anh chưa muốn “Chú còn đợi bạn thêm một lúc…”- anh nói để cô bé đi vào nhà, dù sao anh cũng đang rất muốn được một mình, vào lúc bờ sông hun hút gió, tận hưởng cái thú được ngồi một mình không phải lúc nào cũng dễ.
Mà đúng là một mình không dễ thật. Phía bãi sông, gió còn lồng lộng hơn ở đây, một người đàn bà đi lên, tà áo mỏng bay phần phật. Chị ta không phải đi lên phía anh mà ngồi ngay chỗ kè sông bê tông phía dưới, nhặt dăm ba chiếc lá tre lên, xếp lại như quân bài rồi thả cho lá bay vèo, cứ thế…Một người đàn bà chắc là điên. Nhưng điên một cách hiền lành, không có gì để ngại, anh nghĩ vậy. Chỉ cố điều quen quá, cái lối xếp lá khô trên tay rồi thả lá bay theo gió. Anh đã nhìn thấy lúc nào, ở đâu rồi, chắc chắn thế.
Phải rồi, anh nhớ ra mình đã nhìn thấy một cô bé, xếp lá vàng rồi thả lá bay đi suốt cả buổi chiều, chưa lâu lắm. Một lần uống cà phê gần Nhà hát lớn, nhìn ra cái vườn hoa đầu Cổ Tân, anh đã thấy, giống hệt thế. Cô bé ấy chơi với lá lâu quá, không một đứa trẻ nào vào thời buổi này lại chơi với một đám lá lâu như thế, điều ấy khiến anh tò mò. Khi đến gần anh mới biết trò chơi của nó thật ra là vô cùng bất đắc dĩ. Nó chẳng thể làm gì khác, chẳng thể đứng lên được, chẳng thể chạy đi , thậm chí chẳng thể thay đổi tư thế , vì nằm trong cỏ, ngủ mà vẫn giữ chắc lấy chân nó, là một người đàn ông cụt cả hai chân. Hai bố con nó vẫn đi ăn xin trên phố, anh đã có lần cho tiền vào mũ người đàn ông nhưng không để ý lắm đến con bé con. Cái hình ảnh con bé ngồi chơi với lá cây, xếp những chiếc lá rơi lại thành một tập rồi thả tay cho lá bay đi, hóa ra khó quên hơn anh tưởng.
Giờ lại thế, vào lúc anh ngồi một mình, mong muốn ngồi một mình thế này, bỗng đâu xuất hiện người đàn bà kia với trò xếp lá. Không phải một cô bé, không ai giữ chặt lấy chân mình, vẫn xếp lá rồi thả cho gió cuốn đi. Những người đàn bà lạ lùng. Lớn hay bé cũng đều lạ lùng, với trò xếp lá ấy.
Bạn chú không đến, anh nói với cô phục vụ bàn khi trả tiền rượu. Dẫu sao cũng chẳng thể ngồi một mình được nữa. Cũng chẳng thể đi xuống bãi sông. Giờ mới biết vì sao Trịnh Công Sơn viết thế, lòng người như lá úa đã đành, sống trong đời sống phải có một tấm lòng, để làm gì để gió cuốn đi…Trước khi gió cuốn đi, lạy Trời đừng có bàn tay nào ngồi xếp lại.

Hà Phạm