TTST BND: Chuyện nọ nối tiếp chuyện kia trong bài viết của anh Nhi rất thú vị với những người đồng cảnh, câu chuyện dài lướt qua nhiều sự kiện, thực ra cũng là các nhấn nhắc gợi cho nhiều cựu thành viên trại trẻ những kỷ niệm của riêng mình thời sơ tán. Các bạn nhân dịp này hãy cùng góp thêm chuyện vào "Ký ức thời sơ tán" của anh Nhi, cùng chia sẻ với bạn bè và để gộp lại, biết đâu sẽ thành tập hồi ký sinh động tràn ngập kỷ niệm của chung hội ttst bnd.
Sau đây là các góp chuyện thêm vào bài viết đã được đăng (nếu nhìn ô "Nhận xét gần đây" ở cột bên phải của blog =>>, sẽ thấy 3 cái mới nhất trong tổng số hơn chục cái), xin mời bấm vào tiêu đề bên dưới để đến trang xem chuyện góp thêm cho mỗi bài:
+ Ký ức thời sơ tán (1)
+ Ký ức thời sơ tán (2)
+ Ký ức thời sơ tán (3)
Bài kỳ này:
Những cuộc đi chơi, những trận ném nhau, những lúc dạo khắp đường làng tìm hái rau tập tàng… có thể diễn ra bất cứ ngày nào, bất cứ lúc nào trong tuần, chỉ trừ sáng ngày chủ nhật. Ngày đó, khoảng 8-9 giờ sáng, nhiều trại viên đã kéo nhau ra đầu làng, ngóng trên đường bên kia cánh đồng, chờ bóng một tốp người đi xe đạp. Đó chỉ có thể - và chắc chắn - là các bậc phụ huynh về trại thăm con thôi. Đứa nào cũng mong bố mẹ, còn nếu bố mẹ không về được thì vẫn còn hy vọng là có quà, có thư. Trong số những đứa trẻ trông ngóng, chờ đợi đó, không phải không có những đứa có “ngày chủ nhật buồn”. Nhưng chúng cũng rất hiểu rằng không phải là tuần nào bố mẹ cũng về thăm được, và không phải tuần nào cũng gửi quà được. Vì vậy, ngày chủ nhật buồn kết thúc vào lúc khoảng 10 giờ, khi tốp phụ huynh cuối cùng đã đến trại. Lúc này thì vui. Vui với cái không khí rộn ràng của trại. Vui với cái vui của các bạn, cũng như các bạn vui với cái vui của mình trong những lần khác vậy. Rồi những trại viên đó lại tiếp tục những trò chơi, những trò nghịch ngợm, tìm hiểu, khám phá của mình, chờ đợi tuần tới.
Đi hái rau tập tàng cũng là một trong những trò thú vị và thiết thực. Rau tập tàng của chúng tôi ngày ấy không phải là những thứ rau dân dã được chọn lọc để dùng kèm những món lẩu như lẩu mắm bây giờ. Tập tàng của chúng tôi hồi đó có nghĩa là hầm bà lằng, là tổng hợp bất cứ thứ lá gì ăn được. Lá ớt, lá găng, lá lốt, rau sam, rau dền dại, lá mồng tơi… Chỉ đi hái ven đường thôi, không thể lội trong vườn của người ta mà hái, mặc dù trong đó có thiếu gì thứ lá ăn được. Ớt ở đây là nói đến những cây ớt dại, còn mồng tơi là mồng tơi leo ở bờ rào, nhỏ xíu và còi cọc. Hái được một rổ là được một nồi luộc. Góp nhau mỗi đứa 1-2 xu đi mua ớt. Nước mắm thì xin các cô. Bữa rau luộc cải thiện, mỗi đứa gắp 1-2 gắp vậy mà ngon đáo để. Không phải bữa ăn của trại không có rau, mà tại vì rau đây là rau tự mình kiếm được, là kết quả của một bài sinh vật về các loại lá, là cái ngon của nước mắm loại một đồng mốt đi xin và ớt góp tiền mua. Nói vậy thôi, chứ gọi là bữa rau cải thiện cũng được. Cơm bữa ba chén (dù có phải độn ngô), một vài gắp rau, một hai miếng thịt kho được coi là đầy đủ, so với bữa ăn của nông dân thì có lẽ còn sang hơn, nhưng mỗi thứ ăn thêm đều có thể được coi là cải thiện. Tôi nhớ, có một lần “bắt được” một cái tem gạo 225 gr, tôi và một đứa bạn (quên mất là ai rồi) chung tiền nhau được mấy hào, lội bộ mấy cây số ra tận Chúc Sơn ăn cơm ở Cửa hàng ăn uống quốc doanh. Hai đứa một xuất, cơm trắng (không độn), canh và thịt kho, sao mà ngon thế. Ăn xong, lội bộ về đến nhà thì đã lại đói rồi. Nhưng dù sao thì cũng đã được mỗi đứa nửa bữa ăn cải thiện.
Cũng trên con đường đi Chúc Sơn này, tôi còn có một kỷ niệm nữa. Đó là một lần tôi mượn xe đạp chở mẹ tôi từ trại sơ tán ra Chúc Sơn để đón xe về Hà Nội. Từ Chúc Sơn về, đường vắng, không mưa, tôi đạp xe bon bon. Có một anh thanh niên (hồi đó hình như kêu bằng chú thì phải) đi xe chiều ngược lại, cũng bon bon không kém. Cả hai đều đi giữa đường. Tôi tránh qua phải thì anh ta tránh qua trái (của anh ta), tôi tránh qua trái thì anh ta lại tránh qua phải(của anh ta), nói tóm lại là đụng nhau chính giữa đường. Chẳng té, chẳng làm sao cả. Xe anh ta chỉ lệch ghi đông, kẹp bánh xe vào giữa hai đùi mà chỉnh lại là xong. Thế mà anh ta cứ một hai bắt tôi phải về cơ quan (của anh ta) để giải quyết. Bữa trưa đó tôi nhịn đói (cứ tiếc mãi tấm tem gạo 225 gr). Chiều tối, một anh khác phát hiện ra tôi, hỏi anh ta. Anh ta kể lại đầu đuôi câu chuyện. “Vớ vẩn, mày thật là… Thôi, cho nó về đi, tối rồi.”Anh ta cười khì khì. Thế là tôi về, một mình, trời tối, bụng đói. Trên đường về gặp một anh bộ đội, không biết có đói bụng không, nhưng cũng chỉ có một mình, “làm bò” kéo chiếc xe chở mấy bao gạo từ Chúc Sơn về. Tôi xuống xe, dắt bộ, phụ anh đẩy xe, trong bụng còn chưa hết tức cái anh chàng giam người trái phép kia và lo ngay ngáy, sợ các cô mắng vì mượn xe đi từ sáng sớm, đến bây giờ vẫn chưa về. Rồi tôi nghĩ đến phải viết một cái gì đó về một cậu bé tốt bụng và về một anh thanh niên xấu bụng, bắt nạt trẻ con... Đó có lẽ là lần đầu tiên tôi nghĩ đến viết báo, trừ một lần tôi bắt chước viết tin “hôm nay, quân và dân… bắn rơi hai máy bay Mỹ”, bị mẹ tôi la: “bắt chước làm gì mà”.
Cũng trên con đường đi Chúc Sơn này, tôi có những kỷ niệm khác nữa, sẵn dịp kể luôn. Đây là con đường tôi thường xuyên đi lấy gạo cho lớp, hồi tôi học lớp 8, trường cấp III Lý Thường Kiệt, sơ tán ở Tốt Động, gần trại sơ tán báo Nhân Dân. Một lần vừa lấy gạo xong thì báo động, cả bọn chui xuống một cái hầm chữ A đã bong hết lớp đất phủ, nửa phần trên chỉ còn khung tre. Đang ngồi thì cộp một cái, một mảnh đạn cao xạ rơi trúng ngay thanh tre ngang trên đỉnh hầm. Tiếc là hồi đó tôi không giữ lại mảnh đạn ấy làm kỷ niệm. Lần đó đi lấy gạo về, thấy xóm Tròn, nơi lớp 8B của chúng tôi đóng quân, có vẻ hoang tàn, xơ xác vì lá cây rụng đầy ngõ, ít người qua lại trên đường. Thì ra có 2 quả bom ném vội nổ ngay đầu làng, thiệt hại là một chú trâu đang cột gần đó. Đi lấy gạo bằng xe bò, mà tôi luôn xung phong “làm bò” giống như anh bộ đội kia, chỉ khác là có các bạn đẩy nhiệt tình phía sau. Chính cái hăng hái, nhiệt tình đó, cộng thêm cái học lực không đến nỗi nào, tính tình chan hòa, vui vẻ, hớt tóc mỗi tháng một lần và không nói tục, không hút thuốc lá… mà tôi được kết nạp vào Đoàn năm 15 tuổi. Hầu như chủ nhật nào tôi cũng về trại sơ tán báo Nhân Dân, như về nhà vậy. Thú vị thật. Học ở trường sơ tán, về thăm trại sơ tán, như về nhà. Hai chữ sơ tán đối với tôi sao mà thân thiết quá. Sau này đi học ở Hungary, lúc các bạn đi sơ tán ở (hình như là) Thạch Thất (năm 1972), tôi vẫn hay nghĩ rằng, còn mình thì đi sơ tán xa, sơ tán dài hạn.
(Còn tiếp)
Xem lại: Trại sơ tán: Ký ức thời sơ tán (1) / Ký ức thời sơ tán (2) / Ký ức thời sơ tán (3)
Sau đây là các góp chuyện thêm vào bài viết đã được đăng (nếu nhìn ô "Nhận xét gần đây" ở cột bên phải của blog =>>, sẽ thấy 3 cái mới nhất trong tổng số hơn chục cái), xin mời bấm vào tiêu đề bên dưới để đến trang xem chuyện góp thêm cho mỗi bài:
+ Ký ức thời sơ tán (1)
+ Ký ức thời sơ tán (2)
+ Ký ức thời sơ tán (3)
Bài kỳ này:
Ký ức thời sơ tán (4)
Huỳnh Dũng Nhi
Những cuộc đi chơi, những trận ném nhau, những lúc dạo khắp đường làng tìm hái rau tập tàng… có thể diễn ra bất cứ ngày nào, bất cứ lúc nào trong tuần, chỉ trừ sáng ngày chủ nhật. Ngày đó, khoảng 8-9 giờ sáng, nhiều trại viên đã kéo nhau ra đầu làng, ngóng trên đường bên kia cánh đồng, chờ bóng một tốp người đi xe đạp. Đó chỉ có thể - và chắc chắn - là các bậc phụ huynh về trại thăm con thôi. Đứa nào cũng mong bố mẹ, còn nếu bố mẹ không về được thì vẫn còn hy vọng là có quà, có thư. Trong số những đứa trẻ trông ngóng, chờ đợi đó, không phải không có những đứa có “ngày chủ nhật buồn”. Nhưng chúng cũng rất hiểu rằng không phải là tuần nào bố mẹ cũng về thăm được, và không phải tuần nào cũng gửi quà được. Vì vậy, ngày chủ nhật buồn kết thúc vào lúc khoảng 10 giờ, khi tốp phụ huynh cuối cùng đã đến trại. Lúc này thì vui. Vui với cái không khí rộn ràng của trại. Vui với cái vui của các bạn, cũng như các bạn vui với cái vui của mình trong những lần khác vậy. Rồi những trại viên đó lại tiếp tục những trò chơi, những trò nghịch ngợm, tìm hiểu, khám phá của mình, chờ đợi tuần tới.
Rau tập tàng (ảnh: blog Miền Trung) |
Cũng trên con đường đi Chúc Sơn này, tôi còn có một kỷ niệm nữa. Đó là một lần tôi mượn xe đạp chở mẹ tôi từ trại sơ tán ra Chúc Sơn để đón xe về Hà Nội. Từ Chúc Sơn về, đường vắng, không mưa, tôi đạp xe bon bon. Có một anh thanh niên (hồi đó hình như kêu bằng chú thì phải) đi xe chiều ngược lại, cũng bon bon không kém. Cả hai đều đi giữa đường. Tôi tránh qua phải thì anh ta tránh qua trái (của anh ta), tôi tránh qua trái thì anh ta lại tránh qua phải(của anh ta), nói tóm lại là đụng nhau chính giữa đường. Chẳng té, chẳng làm sao cả. Xe anh ta chỉ lệch ghi đông, kẹp bánh xe vào giữa hai đùi mà chỉnh lại là xong. Thế mà anh ta cứ một hai bắt tôi phải về cơ quan (của anh ta) để giải quyết. Bữa trưa đó tôi nhịn đói (cứ tiếc mãi tấm tem gạo 225 gr). Chiều tối, một anh khác phát hiện ra tôi, hỏi anh ta. Anh ta kể lại đầu đuôi câu chuyện. “Vớ vẩn, mày thật là… Thôi, cho nó về đi, tối rồi.”Anh ta cười khì khì. Thế là tôi về, một mình, trời tối, bụng đói. Trên đường về gặp một anh bộ đội, không biết có đói bụng không, nhưng cũng chỉ có một mình, “làm bò” kéo chiếc xe chở mấy bao gạo từ Chúc Sơn về. Tôi xuống xe, dắt bộ, phụ anh đẩy xe, trong bụng còn chưa hết tức cái anh chàng giam người trái phép kia và lo ngay ngáy, sợ các cô mắng vì mượn xe đi từ sáng sớm, đến bây giờ vẫn chưa về. Rồi tôi nghĩ đến phải viết một cái gì đó về một cậu bé tốt bụng và về một anh thanh niên xấu bụng, bắt nạt trẻ con... Đó có lẽ là lần đầu tiên tôi nghĩ đến viết báo, trừ một lần tôi bắt chước viết tin “hôm nay, quân và dân… bắn rơi hai máy bay Mỹ”, bị mẹ tôi la: “bắt chước làm gì mà”.
Hội TTST BND tạm dừng bên con đường Nguyễn Văn Trỗi, để sắp xếp các quà tặng, trước khi về thăm nhà thờ họ Phùng ở xã Thống Nhất 2/2010 (giờ là Hữu Văn). Con đường nối từ Chúc Sơn, qua Tốt Động, Hữu Văn và thẳng tới sân bay Miếu Môn, nơi gặp đường Hồ Chí Minh |
Đình làng gần nhà thờ họ Phùng (chụp ngày 28/02/2010 nhân hội TTST BND về thăm nơi sơ tán cũ) |
Xem lại: Trại sơ tán: Ký ức thời sơ tán (1) / Ký ức thời sơ tán (2) / Ký ức thời sơ tán (3)