TTST BND: Truyện của Vũ Tuấn Hoàng đã được đăng trên hoinhavanvietnam.vn từ 04/4/2009 (có thể bấm vào đường dẫn trên để xem toàn bộ trên trang gốc), gồm 43 phần.
(Xem lại: Phần 1 - 10 hoặc Phần 11 - 25)
26
Lâu lắm rồi gia đình tôi mới có dịp đi nghỉ hè chung. Lúc thì tôi bận, lúc lại vợ cũng đi công tác. Lần này, vợ tôi đi công tác trong Nha Trang và thế là cả nhà lên kế hoạch kết hợp nghỉ ngơi luôn. Hai thằng con tôi chưa vào đây bao giờ nên nghe chừng háo hức lắm. Từ khi về nước đến giờ, tôi đi công tác rất nhiều nơi nhưng Khánh Hòa cũng chỉ ghé qua đâu có hai lần, không hơn. Chúng tôi nghỉ tại một căn nhà hai tầng gần sát biển. Thu xếp xong đồ đạc, vợ tôi lên Sở Giáo dục Thành phố làm việc ngay, để mặc ba bố con trong căn hộ hai buồng rộng thênh thang. Cửa sổ căn buồng lớn trông thẳng ra bãi biển, còn cửa sổ căn buồng nhỏ đối diện với một ngôi biệt thự khác trông rất lộng lẫy.
Tuy vừa phải vượt chặng đường khá vất vả, hai cậu con trai không chịu ngồi yên nghỉ ngơi, đòi đi tắm biển luôn. Tôi cũng chẳng còn cách nào khác là khoác chiếc máy ảnh vào cổ và đi theo hai đứa xuống thang gác.
Khoảng hơn năm giờ chiều, vợ tôi ở trên Sở Giáo dục về, cùng đi có bà Nhâm Phó Giám đốc sở. Chúng tôi mời bà dùng bữa cơm thân mật với gia đình mà đầu bếp là tôi. Bà trước là giáo viên cấp ba, nên giọng nói rất vang và đĩnh đạc. Một người phụ nữ có quyền hành nên phong cách và cử chỉ mạnh mẽ như đàn ông.
- Trong nhà, tôi phải cáng đáng hết, từ cái kim sợi chỉ đến đổ móng xây nhà - bà vừa nói vừa nâng cốc rượu lên.
- Tôi xem cách chị uống rượu chẳng kém gì phụ nữ Nga đâu nhé!
- Ấy nhưng ông chồng tôi lại chẳng động đến một giọt nào, chỉ nghiện thuốc lá thôi. Chia nhau, mỗi người hư một thứ cho khỏi ghen tỵ.
Bà Nhâm cười phá ra rất hồn nhiên.
- Em bỏ quá cho cánh dân chài lưới chúng tớ, ăn sóng nói gió, không yểu điệu như mấy cô Hà Nội đâu.
- Nhà của đại gia nào bên kia mà đẹp thế? - vợ tôi chỉ tay ra phía cửa sổ.
- Đẹp thì có đẹp nhưng bất hạnh. Nhà ấy bây giờ bỏ không. Hình như cho một công ty du lịch nào đó thuê lại thì phải.
- Sao thế?
- Chồng đi sang Tây, sang Nga, cặp bồ và chuồn luôn. Ôi dào, chuyện này xôn xao cả thành phố Nha Trang gần mười năm trước. Một ông tổng giám đốc tài ba, điển trai và giàu có nổi tiếng, vợ đẹp, con khôn, trong một chuyến đi công tác đã ăn phải bùa yêu và... - bà phẩy tay một cái. - Hút con mẹ hàng lươn. Thiên hạ người ta chửi cho không còn đường mà quay trở lại.
- Anh Trọng phải không? - tôi bật ra một câu hỏi mà ngay mình cũng phải ngạc nhiên.
- Sao anh biết? Anh quen thằng cha ấy à? - bà Nhâm cũng tròn mắt nhìn tôi như nhìn một kẻ tòng phạm.
- Cũng chỉ biết sơ sơ thôi, cả chục năm trước rồi. Thế anh ấy giờ sống ở đâu? Tôi làm ra vẻ lơ đãng hỏi vì rất hiểu tình thế của anh Trọng trong con mắt của bà Nhâm và dư luận tại nơi đây.
- Còn ở đâu nữa, bên Nga ấy, ối giời, tôi rất dị ứng với cái loại lăng nhăng đú đởn dở Tây dở ta ấy. Nghe đâu cái con ranh kia chỉ bằng tuổi con thôi, cũng văn nghệ sĩ nghệ siếc gì đấy. À phải rồi, nó chơi đàn violon. Chị vợ lúc đầu tưởng tự tử được, ốm lên ốm xuống, những sau đó mấy mẹ con chuyển vào Sài Gòn làm ăn. Cô ấy có người anh làm to trong đó giúp đỡ. Năm nào cũng về đây một đôi lần thăm nom nhà cửa, thu tiền nhà cho thuê. Đời sống vật chất chẳng thiếu thốn gì nhưng nói chung là bất hạnh, gia đình tan nát. Đàn ông các anh có mà treo cổ hết lên cũng còn chưa hết tội. Đường ngay không muốn đi lại cứ thích đâm quàng đâm xiên vào bụi rậm...
Tôi lặng người đi không cất lên lời. Đúng là Tachiana rồi. Số phận thật trớ trêu. Vậy là anh Trọng đã lấy mẹ, rồi bây giờ lại phải lòng con. Sự thể như thế nào, tôi rất sốt ruột muốn biết.
- Họ có con với nhau không? - tôi bất giác hỏi.
- Ai mà biết được. Thằng cha ấy có dám vác mặt về đây nữa đâu. Nó ở tịt bên đó làm ăn. Thú thật, loại vô đạo đức ấy thì có mà chết mất xác cũng chẳng ai thương.
Tôi hiểu rằng mình mà không xin rút lui thì bà khách này sẽ còn giảng miễn phí cho nghe về sự đồi bại, lăng nhăng của đàn ông không biết đến bao giờ mới chấm hết. Tôi cáo lỗi nói rằng muốn xuống đường mua thuốc lá. Khép cửa lại rồi, tôi vẫn còn nghe thấy một câu lọt theo:
- Thằng nào cũng thế thôi, em phải luôn luôn cảnh giác.
27
Tôi bị sốc vì cái tin bà Nhâm vô tình cho biết. Ký ức về K. đột ngột quay trở lại trong đầu khiến tôi thấy lâng lâng. Mua bao thuốc lá, trả tiền rồi mà tôi cũng quên lấy thuốc. Ngồi một lúc lâu trên chiếc ghế đá bên bờ biển, tôi mới sực nhớ ra. Cầm bao thuốc trong tay, tôi lững thững quay trở lại nhà và cố tình đi qua cổng của ngôi biệt thự bất hạnh. Trên tấm biển màu vàng chữ xanh ghi dòng chữ: “Công ty du lịch lữ hành Hải Âu”. Qua cánh cửa sắt, bên trong loáng thoáng bóng mấy nhân viên đi lại. Tôi ngập ngừng lưỡng lự đôi chút trong khung cửa. Đúng lúc đó, một cô nhân viên bước ra, hỏi:
- Anh cần gặp ai ạ?
- Tôi... tôi cần gặp chủ căn nhà này.
- Rất tiếc là bà ấy không sống ở đây. Gia đình ở cả trong Sài Gòn. Mùa này, có thể bà ấy hoặc con cái về đây nghỉ vài hôm rồi lại đi. Trước khi xuống, bao giờ cũng gọi điện báo trước.
- Cảm ơn cô.
Tôi khép cánh cửa lại và lững thững đi bộ dọc phố ven biển. Tôi dừng lại trước cổng khách sạn mà hơn mười năm trước đã ở bốn ngày theo đoàn khách tỉnh K. Khung cảnh không có gì thay đổi lắm, cây cối có vẻ rậm rạp hơn. Tôi vẫn không quên câu nói của Lan Hương trên thềm khách sạn kia, trước khi chị bước vào chiếc xe tắc-xi. “Đối với Tachiana, tôi đã chết rồi là tốt nhất”. Tôi bước hẳn vào trong quán cà phê mà hai chúng tôi đã ngồi nói chuyện. Tôi ngồi xuống chiếc ghế mà theo trí nhớ của tôi, nó chính là chiếc ghế tôi đã ngồi mười năm trước. Nhưng cũng có thể tôi nhầm vì trong thời gian đó, quán này đã thay bao nhiêu chủ và nội thất rồi. Một câu hỏi luôn vương vấn trong đầu tôi: có nên gặp lại Lan Hương hay không? Tôi có thể xin số điện thoại ở công ty du lịch và gọi thẳng vào Sài Gòn cho chị (bây giờ phải gọi là cho bà ấy). Tất nhiên, bà sẽ chẳng nhận ra tôi là ai. Rồi tôi tự giới thiệu, sau một lúc im lặng, bà sẽ “A!” lên một tiếng. Chắc bà sẽ hỏi tôi cần gì ở bà, muốn tò mò biết thêm về đời tư trắc ẩn chăng? Hay về sự đổ vỡ của cuộc sống vợ chồng? Biết đâu, bà cũng có một cuộc đời mới rồi và không muốn ai đả động đến quá khứ đau thương? Chẳng thế mà bà đã phải chuyển hẳn vào Sài Gòn sinh sống. Nói tóm lại, tôi sẽ trở thành một kẻ tò mò lố bịch, một vị khách bất đắc dĩ đối với Lan Hương. Tốt hơn hết là im lặng, không nên động đến một con người đã chịu đựng quá nhiều những đau thương của cuộc đời. Nhưng đây có phải là quả báo không? Hay chính là cái giá phải trả cho một hành động vô nhân tính lúc còn trẻ tuổi?
Trong những ngày nghỉ ở Nha Trang, con người tôi như bị phân thân. Nằm phơi nắng trên bãi biển bên cạnh vợ con nhưng suy nghĩ cứ trôi về cái mảnh đất của thời sinh viên. Tôi vẫn không sao lý giải nổi mối tình của anh Trọng với Tachiana? Không biết anh có ghé gặp lại cô và trao món quà của Lan Hương hay không? Họ gặp nhau như thế nào? Số phận của hai con người đó mới là điều tôi đáng quan tâm. Nó sẽ là câu trả lời cho những bí ẩn trong thế giới tình cảm phức tạp và mong manh của con người. Tôi sẵn sàng trả một giá đắt để được biết về cuộc sống của họ bên đó.
28
Một tuần nghỉ biển trôi quá nhanh. Sáng thứ sáu, chúng tôi thu xếp đồ đạc, trả nhà và ra sân bay. Trong phòng chờ đông nghẹt người và nóng hầm hập. Hai thằng con đen trùi trũi, gầy đi nhưng trông khỏe ra, chẳng chịu ngồi yên, cứ chạy từ chỗ chơi điện tử sang ngắm các cửa hàng đồ lưu niệm về biển. Tôi rất mê ốc biển nên mua liền mấy đôi trong cửa hàng để bầy tủ chè phòng khách của gia đình. Vợ tôi cáu gắt lên với tôi vì đồ đạc không mang, cứ khư khu ôm trước ngực hộp ốc biển chỉ sợ vỡ.
Mọi người đã bắt đầu làm thủ tục vào. Trong lúc tôi đang đứng ở cửa hải quan thì bà Nhâm ở đâu xồng xộc chạy tới:
- Suýt nữa thì không kịp tiễn cô chú - bà nói oang oang. - Máy bay từ Sài Gòn vừa xuống, gặp người quen nên đứng lại nói chuyện. Có cần chị giúp gì không? À, đấy là bà chủ ngôi biệt thự cạnh ngôi nhà cô chú ở đấy!
- Chị Lan Hương phải không? - tôi bật hỏi và không khỏi cảm thấy xúc động.
- Em cũng biết à? Bà ấy đứng ngoài kia kìa, đang đợi chị ra về cùng xe.
Tôi đưa cái hộp ốc cho vợ và chạy ra theo tay chỉ của bà Nhâm.
Nhìn thấy Lan Hương từ phía sau, đang đứng trên vỉa hè, bên cạnh một bà già đang bán những quả bóng bay đủ các màu sắc, tôi ghìm bước chân và bước lại gần.
- Chào chị Hương! - tôi nén xúc động, cất giọng.
Lan Hương quay ngoắt lại vì bất ngờ. Gương mặt chị thoáng chút ngỡ ngàng, mắt chị hơi nheo nheo lại như thể bị chói nắng. Chị chuyển chiếc túi xách từ tay này sang tay kia.
- Chị không nhận ra tôi sao? Chả nhẽ tôi đã thay đổi nhiều đến như vậy?
- Anh Vũ! - chị thốt lên, giọng nói hơi lạc đi, thảng thốt. - Anh mới về nước hả?
- Không. Em về hẳn lâu rồi, hơn mười năm rồi.
- Mới đấy mà đã mười năm rồi. Em vào đây nghỉ phải không? Đến nhà chị chơi đi!
- Em đang chờ máy bay ra Hà Nội. Chị không thấy em đen nhẻm à? Đã nghỉ gần một tuần rồi. Nhà em và các cháu đang ở trong phòng chờ.
- Thế à, tiếc thật. Chị hiện nay ở trong Sài Gòn - nói đến đây, giọng chị hơi chùng xuống, ánh mắt lộ vẻ bối rối, nhìn tránh sang như đang ngắm nghía mấy quả bóng bay.
- Các cháu khỏe cả chứ chị?
- Thằng lớn đang học cao học ở Canada - giọng chị lại trở nên hào hứng - Cháu gái năm thứ ba trường Y khoa Sài Gòn.
Từ phía trong có tiếng chị Nhâm gọi í ới vọng ra. Tôi hấp tấp nói mấy lời tạm biệt và dúi cho chị tờ báo “Dân trí” đang cầm trên tay. “Em đang làm việc ở tờ báo này, có gì chị em mình liên hệ với nhau”. Đúng lúc đó, chị Nhâm chạy tới.
- Thế nào, người quen cũ hả? Thôi đành để dịp khác vậy, vào nhanh lên, máy bay sắp cất cánh rồi.
Tôi hối hả chạy vào. Qua cửa kính phòng chờ, thấy hai người phụ nữ còn đứng nói gì đó với nhau. Chị Nhâm nói chuyện qua điện thoại di động và cả hai đi khuất sang phía bên kia đường. Tôi chạy bộ trên đường băng bê-tông nóng bỏng, gió thổi phần phật từ phía động cơ chiếc máy bay Airbird đang gầm rú. Mấy người khách cuối cùng đang chuẩn bị bước vào khoang. Tà áo dài màu mận chín của cô chiêu đãi viên hàng không đứng trên thang bay phấp phới như cánh tay vẫy chào tạm biệt thành phố biển Nha Trang hiền hòa, mến khách.
29
Chỉ một tuần sau, tôi đã nhận được một phong bì thư dày, gửi theo đường bưu điện có bảo đảm. Mới cầm lên, nhìn lướt qua, tôi đã biết ngay chủ nhân của bức thư. Tôi nói với ông tổng biên tập là phải đi lấy tư liệu ở Thư viện Quốc gia trên phố Tràng Thi, nhưng kỳ thực, đây là một chỗ mà tôi có thể yên tĩnh ngồi đọc mà không bị ai quấy rầy. Tôi tin chắc rằng nó không phải là một bức thư bình thường, dăm ba dòng chào hỏi xã giao lấy lệ, mà chắc chắn phải là sự bộc bạch nội tâm của một con người, một số phận nhỏ nhoi bị chìm lấp trong muôn vàn số phận phù du của kiếp trần gian.
“Việc tình cờ gặp lại anh, tôi xem như là một định mệnh. Bởi vì ngoài anh ra, không một ai biết được cái bi kịch sâu kín của cuộc đời tôi. Tôi chỉ định ở lại Nha Trang một ngày, song để có thời gian viết lá thư này, tôi quyết định nán lại thêm cho đến khi viết xong. Chắc chị Nhâm cũng đã cho anh biết về sự ra đi của chồng tôi. Tôi viết lá thư này không phải để thanh minh với anh, cũng không phải để anh rủ lòng thương đến một người đàn bà bất hạnh bị chồng ruồng bỏ. Thời gian mười năm qua đã làm tốt công việc của mình. Hạnh phúc của tôi bây giờ là được trông thấy con cái trưởng thành. Tôi sống cũng vì chúng nó.
Tôi mong rằng, sau khi đọc xong lá thư này, anh hãy đốt nó đi. Song, có lẽ đấy chỉ là ý muốn đơn phương của tôi mà thôi. Tôi biết các anh, những người viết báo viết văn vẫn thường sử dụng các chất liệu của đời sống xung quanh mình để xây dựng nhân vật, cốt truyện cho các tác phẩm của mình. Đối với các anh thì chẳng có cuộc đời nào là đáng bỏ đi cả, dù đó là hạnh phúc hay bất hạnh, thậm chí là tội lỗi. Nếu anh có làm như vậy thì tôi chỉ yêu cầu anh một việc: nên thay tên đổi họ của tôi và những người có liên quan. Tôi viết lá thư này cho anh cũng xem như là một hành động ăn năn sám hối, hay nói theo ngôn ngữ văn chương là sự dâng hiến cho nghệ thuật, dù ở dưới dạng nguyên liệu thô sơ.
Tôi sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo thuộc tỉnh Nghệ An. Bố mẹ tôi có ba người con gái, tôi thứ ba. Trong làng, bố tôi cảm thấy mình yếm thế vì đẻ toàn con gái. Ngay từ khi còn nhỏ, một ông thầy tướng trong làng nói với bố mẹ tôi rằng, trong ba cô con gái thì chỉ có tôi là khá hơn cả, bố mẹ được nhờ nhưng cuộc sống gia đình vất vả. Ngẫm đi ngẫm lại thấy ông thầy tướng mắt toét nói thế mà đúng. Con người ta có số cả rồi, không chạy đi đâu được. Bố tôi là thương binh cụt một chân thời chống Mỹ. Thỉnh thoảng, cụ vẫn về thăm lại Khe Sanh và nói đùa là: đi tìm lại chiếc chân trái của mình. Người dân quê tôi rất hóm hỉnh, trào lộng ngay cả khi cuộc sống cùng cực nhất.
Một sự việc xảy ra trong gia đình khiến tôi suy nghĩ rất nhiều và nó ảnh hưởng đến hành động của tôi sau này. Chị gái tôi là thanh niên xung phong, mãi đến năm 26 tuổi vẫn chưa có chồng. Hồi đó, vào tuổi ấy mà chưa xây dựng gia đình thì coi như ế và là một nỗi nhục cho cả gia đình, họ mạc. Thế nhưng đùng một cái, chị có mang. Tôi nhớ hôm ấy đi học về, vừa đến đầu ngõ đã nghe thấy tiếng bố tôi la hét trong sân, tiếng bà con xóm giềng chạy rầm rập, trẻ con gọi nhau í ới. Bước vào cổng nhà, một cảnh tượng khó quên bày ra trước mắt: chị tôi bị trói giật cánh khuỷu vào gốc cây cau, đầu bị cạo trọc. Bố tôi một tay chống nạng, một tay cầm chiếc roi mây dài, thỉnh thoảng lại vung lên quất vun vút trong không khí. Bố tôi đang tra hỏi ai là bố đứa bé trong bụng. Tôi nấp ở sau gốc cây na nhìn và nhận thấy một điều: bố tôi mồm thì mắng chửi chị sa sả, nhưng hai hàng nước mắt ông chảy quanh. Những ngọn roi ông vung lên, quật xuống nghe rất ghê nhưng chủ yếu quất vào thân cây cau. Tôi bỗng hiểu ra một điều, bố đang diễn một vở kịch với hàng xóm láng giềng. Đêm hôm đó, tôi nghe lỏm thấy bố mẹ tôi bàn với nhau trong buồng là đưa chị tôi tới nhà của một người bà con xa ở Quảng Bình để sinh nở, chứ còn để ở nhà thì khó mà sống được với miệng lưỡi cay độc của thiên hạ. Bố tôi là một quân nhân lâu năm, trông bề ngoài khô khan ít nói, thế mà đêm hôm đó, ông khóc thành tiếng như một đứa trẻ. Ký ức này thường xuyên trở lại với tôi, nhất là vào những đêm đông băng giá trong một căn buồng nhỏ trên tầng chín của khu ký túc xá liên hợp dệt may Vôrosilốp tại tỉnh L. thuộc nước cộng hòa Ucraina năm năm sau đó. Tôi nhớ mãi cái đêm biểu diễn văn nghệ nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập Khu liên hợp. Các nữ công nhân Việt Nam đóng góp tiết mục múa sạp và múa nón. Mặc dù không nhìn nhưng tôi vẫn cảm nhận được ánh mắt khác thường của anh chàng nhạc công điển trai tóc xõa ngang vai chơi ghi-ta dán lên người tôi. Có lẽ, đây là lần đầu tiên trong đời có một người đàn ông nhìn tôi một cách đắm đuối và đa tình như vậy. Trong đáy sâu tâm hồn tôi, một cái gì đó chuyển động khiến người sởn da gà, mặt nóng bừng, các ngón tay lạnh ngắt. Trong trang phục dân tộc, tôi cảm thấy mình đẹp nổi bật và gây nên nhiều tiếng xì xào bàn tán ở mấy hàng ghế đầu. Sau tiết mục của chúng tôi là đến một vở kịch tự biên tự diễn về đề tài tiết kiệm. Tôi đang còn đứng ở gần cửa sau cánh gà thì chợt cảm thấy ai đó bóp nhẹ vào tay mình và một giọng nhẹ nhàng, ấm áp vang lên sát bên tai: “Tôi có thể tiễn cô về được không?”.
Quay lại, tôi nhận ra chàng trai chơi ghi-ta. Ánh sáng từ sân khấu hắt ra khiến nửa người anh rực rỡ trong ánh đèn, nửa kia lại chìm trong bóng tối của màn đêm bên ngoài đã buông xuống từ lâu rồi. Từ trước tới giờ, chưa có ai cư xử với tôi một cách lịch sự và hào hoa như vậy. Từ người anh tỏa ra mùi nước hoa đàn ông thơm dìu dịu hết sức quyến rũ. Mọi phản ứng của tôi hầu như bị tê liệt. Bất chợt có tiếng mấy đứa bạn í ới gọi tôi về. Tôi như giật mình choàng tỉnh, rụt vội tay lại và vội vã chạy lại phía các bạn. Tối hôm đó, tôi không tài nào chợp mắt được, cứ trở mình luôn trên chiếc giường lò xo. Gương mặt, đôi mắt và nụ cười phô hàm răng trắng đều của chàng nhạc công cứ lởn vởn trước mắt. Chiếc kim đồng hồ hình vệ tinh màu xanh bay không biết bao nhiêu vòng mà mắt tôi vẫn ráo hoảnh. Cô bạn gái cùng phòng trong mơ nói cười lảm nhảm thật vô tư. Sáng ra đi làm, nhìn trong gương thấy hai mắt thâm quầng, nhưng trong lòng lại rất vui như có ngọn lửa đang nhảy múa. Lúc đi ăn cơm trưa về, tôi thấy một bông hoa hồng để ngay trên bàn máy khâu. Tôi lặng người đi và hiểu ai đã đặt lên đây trong lúc cả phân xưởng tắt đèn nghỉ ăn trưa. Những quan tâm nho nhỏ đó trở nên thường xuyên hơn và đến một lúc nào đó, tôi chợt hiểu rằng tôi nóng lòng đến chỗ làm chỉ để được nhìn thấy anh. Ngày nghỉ đối với tôi thật ảm đạm và dài lê thê. Tôi rất tích cực học tiếng Nga và đã có được những tiến bộ khiến cô giáo dạy Nga văn đề nghị nhà máy khen thưởng. Mùa thu vàng đầu tiên khiến tôi bàng hoàng vì vẻ đẹp mê hồn như trong một giấc mơ. Và, tôi đã nhận lời mời đi xem phim với anh. Trên hàng ghế cuối cùng của rạp, hai chúng tôi đã không cưỡng lại được một nụ hôn ngây ngất. Nụ hôn đầu tiên và có lẽ là nồng nàn nhất mà tôi còn nhớ được. Bằng linh cảm, tôi hiểu rằng ngồi bên tôi là người đàn ông đầu tiên trong cuộc đời mình.
- Chủ nhật tuần này, em có bận không? - Anđrây hỏi.
- Em cũng chưa biết, nhưng chắc không.
- Đi ra nhà nghỉ ngoại ô của gia đình anh chơi đi, chúng ta đi hái nấm, mùa này chơi cả ngày trong rừng cũng không chán!
Tôi hiểu rằng mình không cưỡng lại được lời mời đó, song đi cả một ngày như thế không thể giấu được đám bạn cùng nhà máy và nhất là ông đơn vị trưởng, một người đàn ông gần năm mươi, nhưng ánh mắt chẳng giấu diếm gì vẻ thèm muốn mỗi khi vào phòng ở của đám công nhân nữ trẻ. Ông ta lại có tính ích kỷ, hay chọc phá các mối tình của các nữ công nhân dưới quyền mình và ra lệnh cấm không cho thanh niên từ các thành phố khác đến chơi vào những ngày nghỉ được ngủ lại trong ký túc xá của nhà máy. Tôi nói dối là chủ nhật này đến nhà bà trưởng ca Valia chơi.
Buổi sáng sớm hôm đó, tôi vừa thức dậy, vén tấm rèm cửa sổ nhìn xuống đường đã thấy chiếc xe Moskovich màu mận chín đậu ở trước cổng lối vào, nhưng phía bên kia đường. Anđrây hé cửa xe để hút thuốc. Tôi nhanh chóng làm vệ sinh cá nhân và khoác thêm chiếc áo ấm phòng thời tiết thay đổi. Lúc khép cửa lại vẫn thấy cô bạn cùng phòng ngủ say như chết, mái tóc đen dài xõa trên chiếc gối trắng tinh. Ở dưới tầng một vắng tanh không một bóng người. Bà gác cổng ngủ gà ngủ gật trong chiếc bốt gác của mình, cuộn len chắc bà đang đan dở rơi xuống đất lăn ra gần sát chiếc bàn để thư từ sách báo. Tôi bước ra ngoài và làm bộ như không nhìn thấy chiếc xe đang đậu đó, cứ dọc vỉa hè bên phải mà đi. Đi được một lúc thì chiếc xe đuổi kịp, phanh kít lại sát bên. Anđrây mở rộng cánh cửa xe. Tôi nắm lấy bàn tay của anh đưa ra đỡ và chiếc xe rồ máy tăng tốc. Sương buổi sáng còn đọng thành từng giọt trên cửa kính, nhà cửa cây cối hai bên đường loang loáng lướt qua như trong một cuốn phim quay nhanh. Hai ánh mắt chúng tôi gặp nhau và chẳng cần sử dụng đến ngôn ngữ, cùng ngầm hiểu: cả ngày hôm nay là của riêng hai người.
Những gì mà trước đây tôi chỉ được xem qua phim ảnh, mà cũng chỉ rất hãn hữu, về cuộc sống của một xã hội xã hội chủ nghĩa thì bây giờ đã trở thành hiện thực. Gia đình có xe ô tô riêng, có căn hộ và nhà nghỉ cuối tuần ở ngoại ô. Lúc đó, đối với tôi là thiên đường. Từ một thế giới mà miếng ăn không đủ no, áo quần không đủ mặc, tôi rơi vào một nơi mà chân giò lợn người ta cho chó ăn, thứ bảy chủ nhật người lao động chỉ nghỉ ngơi xem phim xem ca nhạc. Vào nhà ai, dù chỉ là một người thợ cả, trong nhà đều có tủ sách và chiếc đàn piano cho con cái học. Tôi vẫn ước ao được sống trong cái xã hội đó. Và, hình như cơ hội đã đến với tôi...
Chiếc xe rời đường quốc lộ lớn chạy vào một cánh rừng thông, các thân cây thẳng tắp lao vút lên bầu trời đã chan hòa ánh nắng chói chang. Con đường mòn nhỏ hẹp, gập ghềnh chạy ngoằn nghèo trong rừng, thỉnh thoảng lại gặp một căn nhà gỗ xinh xinh với một đám trẻ con ăn mặc sặc sỡ, tinh tươm đang nô đùa chạy nhảy trên bãi cỏ gần đó. Mọi người đốt lửa, nướng thịt và ca hát nhảy múa xung quanh thật vui vẻ, thanh bình.
Anđrây đạp phanh dừng xe lại bên một ngôi nhà gỗ nhỏ, mái nhọn và quét sơn màu xanh lá cây. Qua cửa kính xe, tôi thấy lấp lóa ánh phản chiếu của một hồ nước cách đó không xa.
- Đến nơi rồi - Anđrây nói và quay sang hôn lên má tôi.
- Không khí thật trong lành - tôi bước ra ngoài đi đi lại lại ngắm nhìn khung cảnh xung quanh. Không hiểu sao, tôi lại chạnh lòng nhớ tới làng quê tôi, nhớ dãy núi Tùng, con sông Mai, nhớ những buổi đi cắm trại, đi kiếm củi trong núi... Nước mắt tôi bỗng ứa ra vì thấy quê hương mình nghèo khổ quá, con người mình lam lũ nghèo đói quá. Khi sang đến Liên Xô, lần đầu tiên trong đời tôi mới biết sử dụng xu chiêng và cầm đến thỏi son môi.
- Vào đây cầm cho anh chiếc giỏ này đi.
Tiếng gọi của Anđrây từ trong ngôi nhà vọng ra níu tôi trở về với hiện tại. Tôi quay lại và bước lên mấy bậc thang gỗ dẫn vào trong phòng. Mùi gỗ thông thơm thơm xộc vào mũi thật dễ chịu. Anđrây đang đứng lên trên chiếc ghế con để với mấy chiếc làn treo ở phía trên sát trần nhà.
- Cái nhỏ cho em, còn cái to để anh.
Chúng tôi cầm theo hai con dao nhỏ để cắt nấm. Anđrây dắt vào thắt lưng một chiếc rìu lớn, cán gỗ trơn bóng.
- Cần lấy ít củi về làm món thịt nướng.
Hai chúng tôi đi bộ lang thang trong rừng. Thỉnh thoảng cũng gặp những người đi hái nấm như chúng tôi. Họ đều nhìn chúng tôi bằng một ánh mắt ngỡ ngàng đầy vẻ tò mò. Tôi cảm nhận được vẻ tự hào qua gương mặt của Anđrây. Chính những giây phút đó, tôi mới hiểu được giá trị của sắc đẹp bản thân mình. Chính từ đó tôi cảm thấy mình tự tin và mạnh dạn hơn. Vừa đi hái nấm, Anđrây vừa kể cho tôi nghe về vở kịch “Vua Lia” của Shakespear, khi đó tôi tưởng đó là một nhà văn Nga. Anđrây đang chuẩn bị thi vào khoa biên kịch trường điện ảnh ở trên Matxcova. Anh vừa đi làm tại nhà máy vừa chuẩn bị ôn thi. Đến đoạn hoàng tử nước Pháp cầu hôn cô công chúa thứ ba, người con gái đã bị vua Lia tước hết của cải hồi môn chỉ vì dám so sánh tình yêu với cha mình quý như... muối. Chàng hoàng tử nước Pháp đã nói: Chính sắc đẹp của nàng đã là một tài sản lớn rồi. Nói đến đây, Anđrây để giỏ nấm xuống và bế tôi trên tay: “Đối với anh, em cũng là một tài sản lớn.” Những chiếc nấm trong giỏ của tôi bị đổ ra rơi xuống xung quanh chân chúng tôi. Tôi cảm giác như trong một giấc mơ. Ánh mặt trời chiếu qua các vòm cây làm tôi lóa mắt. Tôi đưa tay lên che mặt và cảm thấy hai má nóng bừng. Anđrây đặt tôi xuống lớp lá vàng dày như một tấm đệm. Mùi cỏ cây mùa thu thơm thoang thoảng, sạch sẽ. Một chú chồn hương chạy vụt qua khiến cả hai giật mình và chúng tôi không cưỡng lại được một nụ hôn ngây ngất, đượm hương vị ngai ngái của không khí mùa thu trong rừng. Trong vòng tay của anh, bản năng đàn bà trong con người tôi được đánh thức. Mọi rào cản bị xóa nhòa. Chỉ có bản thể lên tiếng. Sau đó, hai chúng tôi nằm im trên đệm lá, ngửa mặt lên trời ngắm những tia ánh sáng xuyên qua các vòm lá vàng rực. Rừng mùa thu như một cơ thể sống đang chầm chậm chuyển mình vào đông. Tiếng chim chóc cũng thưa thớt hơn. Gió cũng nhẹ hơn, chỉ khiến các cành cây khẽ lay động, run rẩy. Mãi sau, tôi ngồi dậy và thu dọn lại chỗ nấm rơi vung vãi. Khi quay trở về, chúng tôi hầu như đi trong im lặng. Giữa hai con người đã có một sự ràng buộc vô hình, ít nhất là từ phía tôi cảm thấy. Đến gần hồ nước, Anđrây hạ một thân cây khô khá lớn và kéo về để nhóm lửa trên bãi trống ngay trước ngôi nhà. Công việc này, tôi cũng không lạ gì nên chẳng mấy chốc mùi thịt nướng đã tỏa ra ngào ngạt. Anđrây vào trong xe lấy ra mấy chai rượu vang, bia và nước hoa quả. Chúng tôi kê bàn ngay ở ngoài và ăn uống ngon lành. Tình yêu khiến con người ta ăn uống ngon miệng hơn. Một con chó hoang không biết từ đâu chạy sán đến, ghếch chiếc mũi ươn ướt lên trên mặt bàn. Tôi vốn không ưa chó, nhưng không hiểu sao bỗng thấy thương thương chú chó hoang có đôi mắt buồn. Tôi dồn tất cả chỗ thịt còn lại vào bát và đặt xuống dưới đất cho nó.
- Anh nghe nói ở Việt Nam, người ta ăn cả thịt chó có đúng không?
- Không những chỉ ăn, mà còn là món khoái khẩu của nhiều người.
Anđrây nhún vai tỏ ra không hiểu nổi - Thế chẳng khác gì ăn thịt người.
Tự nhiên, có một khoảnh khắc im lặng nào đó ngăn cách giữa hai người.
Anđrây quay vào trong nhà và mang ra cây đàn ghi-ta. Anh ngồi bệt xuống ngay bậc cầu thang gỗ và cất tiếng hát. Tôi ngồi nghe anh hát, thỉnh thoảng lại ném mấy cành củi khô vào đống lửa. Nồi súp nấm đang sôi lúc búc, tỏa những sợi khói nhè nhẹ lên không trung.
- Anh sẽ vẽ em đang ngồi bên đống lửa thế kia, đúng là một bức tranh không có tiền lệ. Một thiếu nữ phương Đông ngồi giữa khung cảnh mùa thu vàng Nga. Levitan nếu có nhìn thấy cảnh này cũng phải nảy ra ý định sửa lại kiệt tác “Mùa thu vàng” nổi tiếng của mình. - Nói đến đây, anh bỏ đàn xuống và bước đến bên tôi. Anh cúi xuống hôn lên mái tóc tôi.
- Tóc em thơm mùi nấm.
Anh bế tôi lên và đưa vào trong nhà. Ở ngay bậc thang lên xuống, một chiếc lá phong vàng từ trên mái nhà theo gió trượt xuống, đảo mấy vòng trong không trung và rơi lên mặt tôi. Anđrây cúi xuống dùng môi cặp chiếc lá đó lên. Trên chiếc giường con bằng gỗ thông có trải tấm đệm lông chim mềm mại, người tôi nổi da gà khi chiếc lá kẹp trong đôi môi của Anđrây khe khẽ từ từ cọ lên toàn bộ thân thể để trần của tôi.
- Em có chiếc bớt giống hình chiếc lá này.
- Ông trời đã đánh dấu em để khỏi nhầm với người khác.
- Chúng mình sẽ lấy nhau, mọi người sẽ phải ghen tỵ vì hạnh phúc của chúng ta.
- Đừng nói trước anh...
Dự cảm không lành của tôi đã trở thành sự thật. Đó là bữa cơm đầu tiên, tôi được mời đến gia đình nhà Anđrây. Tôi vẫn được đọc hay xem phim nói về những bà mẹ Nga hiền hậu, tốt bụng đầy lòng nhân ái. Nhưng khi vừa treo chiếc áo khoác mùa đông nặng trịch lên mắc, tôi giật mình quay đầu lại vì cảm thấy ớn lạnh bởi một cái nhìn soi mói, lạnh lùng của một người đàn bà gày khô và đẹp một cách quái ác, đang đứng tựa vào cạnh cửa ra vào. Bà ta hoàn toàn tương phản với ông chồng, to béo, đôn hậu và xởi lởi. Tôi bị ánh mắt của bà làm cho luống cuống, mất bình tĩnh. Tôi không tài nào sử dụng dao nĩa được và hầu như trong suốt bữa ăn, tôi không nói thêm một câu nào trừ những câu trả lời ngắn gọn với một thứ tiếng Nga sai ngữ pháp be bét. Bữa ăn chỉ nửa tiếng đồng hồ, nhưng với tôi nó dài như một đêm mất ngủ. Lưng áo đẫm mồ hôi. Bà mẹ Anđrây suốt bữa không nói câu gì và cuối cùng, trước khi đứng dậy có hỏi một câu:
- Máy bay Mỹ có ném bom và rải chất độc hóa học xuống quê cháu không?
- Cháu khi đó còn bé, phải đội mũ rơm và sống dưới hầm.
Tối về, nằm trên giường tôi mới hiểu rằng mình không thể nào hòa nhập vào được cuộc sống của gia đình Anđrây. Song, bây giờ tôi mới hiểu ra như vậy thì đã muộn.
Tôi ngụy trang việc nôn khan của mình bằng chứng bệnh đau dạ dày do thức ăn không hợp. Cũng may là đang mùa đông, chiếc áo lông rộng thùng thình che cái bụng của tôi bắt đầu to dần lên. Đây là lần đầu tiên trong đời, tôi gặp phải chuyện này. Nếu để lộ ra, tôi chắc chắn bị cắt hợp đồng lao động và phải về nước. Hình ảnh chị gái tôi bị buộc vào cây cau trước nhà lại hiện lên đêm đêm. Cha mẹ tôi không biết sẽ làm gì khi biết tin này. Đây sẽ là nỗi nhục cho cả làng xóm, họ mạc. Tôi mất ngủ nhiều đêm chỉ để suy nghĩ xem có nên nói thẳng ra với Anđrây về cái thai trong bụng hay không. Quả thật là tôi không có một ai để thổ lộ nỗi niềm của mình, để cầu xin sự giúp đỡ. Lần lữa mãi, trong một buổi đi trượt tuyết ở ngoại ô thành phố, tôi mệt tưởng muốn đứt hơi khi vác hai thanh trượt tuyết lên đỉnh dốc. Lên đến nơi, đầu óc tôi quay cuồng, chân tay bủn rủn. Anđrây đỡ lấy lưng tôi và hỏi - Em làm sao vậy.
- Hình như em có mang - tôi mệt mỏi trả lời.
- Thật không? - Anđrây hỏi vẻ thảng thốt.
- Chúng ta sẽ tìm cách giải quyết. Để anh nói với mẹ ngay hôm nay và chúng ta sẽ làm lễ cưới.
Cả ngày hôm đó, tôi chờ đợi. Ngày hôm sau và hôm sau nữa cũng không thấy Anđrây đến gặp. Tôi không thể tập trung vào công việc được. Một đống hàng may hỏng chất bên cạnh. Cô trưởng kíp Galia mặt mày sưng sỉa, quát tháo ầm ỹ vì tiến độ của cả dây chuyền bị chậm lại. Mãi sau, Anđrây mới đi qua chỗ tôi ngồi và nói nhỏ vào tai mấy câu: “Ra chỗ đầu cầu thang gặp nhau”. Anh đi khuất được một lúc, tôi cầm chiếc cốc lên và đi về phía cầu thang như định ra lấy nước pha trà. Tôi biết chỗ này đám thợ sửa chữa máy hay ra ngồi hút thuốc, tán gẫu. Tôi bảo anh lên tầng trên, vào trong phòng chứa vải vụn nói chuyện. Phòng này thường đóng cửa suốt ca làm việc, chỉ cuối giờ mới mở cho đám lao công quét dọn dồn vải thừa ở các phân xưởng vào. Tôi phải nói như hét lên vì động cơ của chiếc quạt thông gió để ở ngay cuối phòng.
- Thế nào anh? - tôi hỏi và nhìn vẻ mặt thiểu não của anh cũng đoán ra được phần nào câu trả lời.
- Mẹ anh cương quyết phản đối. Mẹ khuyên nên... nên đi... phá thai. Mẹ anh bảo các loại chất độc hóa học sử dụng ở Việt Nam thời chiến tranh sẽ làm quái thai... hậu quả để lại có khi sau hàng chục năm... di truyền... Mẹ anh là bác sĩ nên biết...
- Thế ý kiến của anh thì sao? - tôi gào lên hỏi và cảm thấy một niềm căm giận trào lên.
- Anh cũng không biết nữa, em cho anh thời gian suy nghĩ đã, anh cũng bị bất ngờ... Nhưng có đúng là em có con với anh không? Em không quan hệ với ai khác nữa chứ? Những bạn bè đồng hương chẳng hạn? Anh làm sao biết được. Nếu em cần tiền... gia đình anh sẽ chu cấp để giải quyết việc này.
Tôi hất nhào chiếc giỏ nhựa lớn để bên cạnh, vải vụn tung tóe ra sàn nhà.
- Anh bước ra ngay khỏi đây đi, tôi không muốn nhìn mặt anh nữa. Anh về nói với mẹ anh rằng, tôi không cần tiền của bà ấy. Tôi tự giải quyết được.
- Đừng nổi giận với anh như thế, anh vẫn yêu em mà!
- Anh cút ngay ra khỏi đây đi.
Trong cơn giận dữ, hình như tôi định quay ra tìm một vật gì đó để phang, nhưng cuối cùng, khi Anđrây luống cuống bước ra và khép cửa lại, tôi chỉ ném theo anh ta được nắm vải thừa cắt ra từ quần áo lót phụ nữ. Một nửa chiếc xu chiêng mắc vào nắm đấm cửa lúc la lúc lắc.
Còn lại một thân một mình, tôi chỉ biết khóc nấc lên vì tủi thân, vì không biết cần phải làm gì trong những ngày sắp tới?
Tôi nhớ, cái thai trong bụng tôi đã ở vào khoảng tháng thứ năm. Chẳng còn biết làm gì hơn, tôi liều mạng một mình đến bệnh viện thành phố. Người ta chỉ cho tôi phòng khám phụ khoa, bên ngoài hai dãy ghế rất đông người ngồi. Mọi người nhìn tôi bằng một ánh mắt tò mò. Một số phụ nữ bụng mang dạ chửa đều có chồng đi cùng. Họ ngồi tựa lưng vào vai chồng hoặc ôm nhau rất tình cảm. Nước mắt tôi bỗng trào ra vì nghĩ đến thân phận mình. Không hiểu sao, tôi bỗng căm ghét người đàn ông mà mới vừa đây thôi tôi còn đem lòng yêu thương và lòng căm ghét này lây sang cái thai đang nằm trong bụng. “Phải giải quyết không được chậm chễ” - tôi nhủ thầm. Tháng sau sẽ là đợt kiểm tra sức khỏe định kỳ hàng năm, mọi việc sẽ bị lộ tẩy và cái án kỷ luật bị đuổi về nước trước hợp đồng sẽ trở thành hiện thực chắc chắn. Nỗi lo sợ khiến nước mắt cũng khô đi và xúi bẩy con người ta đi đến những bước liều lĩnh.
Tôi giật nảy mình vì tiếng gọi của cô y tá vừa thò đầu ra.
Bác sĩ phụ khoa là một ông già khiến tôi cảm thấy yên tâm hơn. Ông đeo cặp kính cận dày cộp và đôi mắt trông có vẻ gì đó tội nghiệp. Đàn ông làm cái nghề này thì chắc cũng là vạn bất đắc dĩ.
- Năm nay bao nhiêu tuổi?
- Mười tám.
- Phụ nữ phương Đông trông như trẻ con, thật khó đoán tuổi. Có chồng chưa? - cô y tá hỏi để ghi vào bệnh án.
- Dạ, có - tôi nói giọng không hề run.
- Có thai lần thứ mấy.
- Lần đầu ạ. Tôi muốn nạo thai.
- Tại sao vậy?
- Chúng tôi sang đây không được quyền có con.
- Tại sao?
- Trong hợp đồng quy định như thế.
Cô y tá quay đầu lại nhìn ông bác sĩ và nhún vai tỏ vẻ không hiểu.
Ông già khám cho tôi xong và tuyên bố một câu lạnh lùng:
- Thai đã quá lớn để có thể nạo, chúng tôi khuyên cô nên để đẻ.
Tôi hoảng sợ nói chống chế:
- Không được, người ta cấm chúng tôi...
- Tôi nhắc lại, nạo tại thời điểm này sẽ nguy hiểm đến tính mạng và hạnh phúc sau này của chính bản thân cô. Cô có muốn bị vô sinh không?
Tôi muốn òa lên khóc nhưng không hiểu sao cứ thấy nghẹn ở nơi cổ.
Tôi thất thểu bước ra khỏi cổng bệnh viện. Khi đi ngang qua đường, xuýt nữa thì tôi bị một chiếc xe tải cán phải. Tiếng bánh xe rít lên trên mặt đường nhựa chói tai. Ông lái xe thò cổ ra quát um lên: “Mắt mù à, chán sống rồi hay sao?!” Sang đến bên đường bên kia, tôi tự nhủ thầm trong bụng: “Chiếc xe đó mà đâm vào mình thì nhẹ gánh biết bao?”
Trên bến tàu điện, tôi tình cờ gặp bà trực cổng ký túc xá nơi tôi ở. Nhìn thấy gương mặt tôi, bà vội hỏi:
- Cháu bị ốm à? Bệnh gì thế?
Nhìn khuôn mặt hiền hậu của bà, tôi bỗng òa lên khóc nức nở. Bà kéo tôi ngồi xuống chiếc ghế gần đó và ôm lấy tôi nựng như một đứa trẻ. Mọi người đứng đó quay cả lại nhìn chẳng hiểu chuyện gì xảy ra. Đúng lúc đó, chiếc tàu điện nặng nề kêu leng keng chạy đến. Mọi người lên hết, trên bến vắng tanh chỉ còn lại hai bà cháu. Và, tôi đã kể hết sự tình cho bà nghe...
Một đàn chim bồ câu từ mái nhà bệnh viện sà xuống xung quanh chỗ chúng tôi ngồi. Chúng chen nhau mổ những mẩu bánh mì, những hạt hướng dương vương vãi trên mặt đất. Bà Sura lôi từ trong túi ra những mẩu bánh mì khô và tung xuống đất cho bầy chim.
- Đừng hành động thiếu suy nghĩ như vậy, bà sẽ giúp cháu - Sau một lát im lặng, bà nói - Còn bây giờ về nhà bà đi!
Những tháng cuối cùng, tôi vào viện nằm với bệnh án điều trị là viêm loét dạ dày. Bà Sura xin cho tôi một phiếu đi nghỉ điều dưỡng ở khu nghỉ mát “Mặt trời” ở bờ biển Azov. Tại đây, tôi đã vượt cạn một mình. Khi người ta giơ đứa bé lên trước mặt tôi, điều đầu tiên tôi quan tâm là xem đứa trẻ có bị tật nguyền gì không vì câu nói của mẹ Anđrây cứ ám ảnh tôi mãi.
- Một cháu gái khỏe mạnh, kháu khỉnh - bà đỡ nói.
Khi cô hộ lý cuốn tã cho cháu ở giường bên cạnh, tôi quay sang nhìn thấy một vết bớt đỏ nho nhỏ trên cổ của nó. Một cảm giác buồn xâm chiếm tâm trí, khiến tôi ứa nước mắt. Tôi thực sự không muốn nó giống mình. Và hình như, tâm lý của tôi lúc đó chưa được chuẩn bị đầy đủ để làm mẹ với ý nghĩa đầy đủ của nó.
Hai vợ chồng bà Sura ôm một bó hoa to tướng đến đón tôi ở cổng bệnh viện.
Khi tàu vào ga tại tỉnh L., tôi rất lo lắng vì sợ gặp phải người quen. Nhưng mọi chuyện đều suôn sẻ. Tại nhà bà Sura, mọi người trong gia đình đã chuẩn bị mọi thứ cho đứa trẻ. Tôi ngủ lại đó một đêm, cho con bú và hôm sau về ký túc xá của mình. Từ ngày hôm đó, tôi đã trở thành một con người khác. Tôi có hai cuộc sống song song tồn tại. Mặc dù tôi không muốn, nhưng bà Sura đã bí mật đến tận nhà Anđrây để thông báo về việc này. Anđrây đang học tại trường Điện ảnh trên Matxcova. Bà Sura đã cãi nhau một trận khá căng thẳng với mẹ của Anđrây. Sau này bà kể lại rằng, trước khi đi ra khỏi cửa bà đã ném cả sấp tiền vào mặt bà kia và đóng sầm cửa lại. “Tiền của bà thì bà cứ cầm lấy, chúng tôi không cần!” Thời gian sau, trong lúc túng bấn, bà cứ tiếc mãi. Có lần, bà đã lại định đến nhưng nghe nói cả gia đình họ đã chuyển hẳn lên Matxcova sinh sống.
Đùng một cái, Liên Xô tan rã. Hàng loạt các nhà máy phải đóng cửa. Hợp đồng lao động bị hủy bỏ trước thời hạn. Nhà máy không đủ tiền mua vé cho chúng tôi về nước. Chúng tôi đúng là bị vất ra đường, sống chết ra sao mặc bay, tan tác mỗi người một ngả. Ai có tiền thì mua vé về nước, ai không có thì lên các thành phố lớn đứng bán hàng ngoài chợ. Người ta không cho chúng tôi sống ở trong ký túc xá nữa. Tôi chuyển về ở hẳn với gia đình bà Sura. Lúc này, Thảo chưa đầy một tuổi. Thật là những chuỗi ngày xám xịt và ảm đạm. Hàng ngày, tôi phải đứng năm sáu tiếng liền ngoài trời băng giá để bán hàng. Chiều đến, lê về được đến nhà thì sức đã kiệt, chẳng còn buồn ngó ngàng đến con. Không hiểu sao, tôi lại có ác cảm với con bé, có lẽ tại vì nó giống người cha tệ bạc và người bà vô nhân tâm của nó chăng? Thế rồi, trong một chuyến đi lấy hàng trên Matxcova, tôi gặp và quen anh Trọng ngay tại ga tàu hỏa... Khi anh Trọng ngỏ lời cưới thì tôi hiểu rằng mình đang đứng giữa một sự lựa chọn đau lòng: hoặc là anh hoặc là con? Tại sao lúc đó tôi không nói thẳng ra là mình đã có con rồi? Tôi không đủ can đảm và tôi sợ mất anh vĩnh viễn. Đã đâm lao thì phải theo lao. Đã chót nói dối thì phải nói dối đến cùng. Từ khi tôi chuyển hẳn về Petersburg ở, thỉnh thoảng tôi mới quay về thành phố L. thăm con, đưa tiền cho bà Sura, rồi lại vội vã quay trở lại. Tình trạng này kéo dài khoảng một năm. Con bé bắt đầu bi bô biết nói. Khi ở xa, tôi lại rất nhớ nó. Tôi cảm thấy rụng rời chân tay khi anh Trọng nói là cưới xong sẽ trở về Việt Nam làm cho một cơ quan ở trong thành phố Nha Trang, nơi có người quen nâng đỡ. Ý nghĩ phải chia tay mãi mãi với con khiến tôi thao thức nhiều đêm không ngủ được, người gày hẳn đi. Và cái ngày rời khỏi mảnh đất này đã đến gần.
- Em muốn trước khi về nước hẳn xuống Lugansk thăm lại bà chủ nhà em ở có được không?
- Tất nhiên. Hay là anh đi cùng? Anh cũng chỉ còn phải thu xếp một số giấy tờ tốt nghiệp nữa là xong. Đúng đấy, ta nên làm một chuyến du lịch vài thành phố nổi tiếng của Liên bang trước khi tạm biệt.
Tôi giấu anh, viết một lá thư dài kể lể sự việc với bà Sura, van xin bà làm cách nào trong thời gian chúng tôi ở đó, gửi con bé đi nhà trẻ mấy hôm. “Cháu là một người mẹ tồi nhưng bà có hiểu hoàn cảnh của cháu không? Sau này, cháu sẽ nói rõ sự thật với anh ấy, nhưng hiện nay thì chưa đúng lúc.” Một tuần sau, tôi nhận được một bức điện với dòng chữ: “Cứ an tâm, hãy về đi.”
Bà Sura ra tận ga đón hai chúng tôi. Ngay ở bậc lên xuống của toa tàu, bà bóp mạnh một cái vào tay tôi ra chiều bảo: “Mọi việc đã thu xếp đâu vào đó.” Chúng tôi mang nhiều quà cáp cho hai vợ chồng bà. Trong ba ngày ở đây, có đêm tôi đã định đánh thức anh Trọng dậy và thổ lộ hết sự thật rồi muốn ra sao thì ra. Nhưng không hiểu sao, tôi lại không có đủ can đảm, chỉ biết nuốt nước mắt vào trong lòng và lại thiếp đi trong một giấc ngủ mộng mị. Chính một cái tin trên vô tuyến vào buổi chiều hôm trước khi quay trở lại Petersburg đã chặn đứng ý định nói thật với anh về đứa con riêng của tôi. Một người đàn ông đã giết đứa con riêng của vợ vì ghen và ông ta đã tự ra công an đầu thú. Hình ảnh người đàn ông trông rất hiền lành, thậm chí còn nhút nhát diễn lại hành vi giết đứa con riêng của vợ trong gara để xe ô tô cứ ám ảnh tôi mãi. Và chính thời điểm này, tôi biết mình đã có mang. Trước khi ra ga, tôi phải gặp riêng bà Sura ở dưới bếp và yêu cầu bà đón con bé về đây vì đoàn tàu đi Petersburg chạy qua gần nhà bà. Trước đây, mỗi lần tôi quay trở lại Petersburg, bà thường đem con bé ra trước thềm nhà vẫy tiễn.
Trên sân ga, một người mẹ đang bế con trên tay vẫy tiễn đưa chồng. Con bé, chắc cũng trạc tuổi con tôi, cười toe toét trông đáng yêu quá. Bàn tay bé xíu của nó gửi những cái hôn gió về phía đoàn tàu đang tăng dần tốc độ. Tôi cắn răng lại để ghìm tiếng thổn thức trong lòng. Các tòa nhà cao tầng của thành phố đã lùi về phía sau. Chỉ còn năm phút nữa là đoàn tàu chạy qua ngôi nhà của bà Sura. Chỉ năm phút thôi mà tôi có cảm tưởng thời gian như ngừng trôi. Không biết bà Sura có đến đón kịp con bé không? Kia rồi, ngôi nhà mái lợp tôn trắng đã thấp thoáng sau các vòm cây xa xa. Tôi dán mắt vào khung cửa kính, hai tay nắm chặt lấy thanh lan can đến toát mồ hôi lạnh. Mắt tôi đã trông thấy một cái chấm trăng trắng như một bông hoa ở phía trước nhà. Đúng là chiếc áo hoa mới tôi gửi cho nó từ tháng trước. Chỉ còn thiếu chút nữa thì tôi gào lên khi nhìn thấy bà Sura nâng con bé con trên tay. Hình như, đôi môi nó mấp máy mấy tiếng ma ma. Hai cánh tay nhỏ bé của nó vẫy loạn lên như thể muốn níu kéo lại cả đoàn tàu đang ầm ầm chạy qua, níu kéo lại người mẹ khốn nạn của nó.Đây là những giây phút không thể quên của cuộc đời tôi. Đến giờ phút này, đã hơn ba chục năm trôi qua, song trong ký ức tôi hình ảnh hai bà cháu đứng trên thềm nhà vẫy theo đoàn tàu vẫn hiện ra rõ nét như mới hôm qua vậy.
Con người ta sống với những dự đoán phấp phỏng về tương lai của chính bản thân mình. Khi thằng con trai đầu lên ba tuổi, tôi cùng với một chị bạn nữa lặn lội lên tận Đà Lạt để xem bói. Người đàn bà mù ấy đã làm tôi sửng sốt khi nói về quá khứ và những gì bà tiên đoán về tương lai thì bây giờ đã trở thành hiện thực. “Cô sẽ bị đau khổ vì đứa con đầu lòng”. Đó cũng là một trong những lý do khiến tôi dứt bỏ ý định quay trở lại Ucraina tìm con. Bản năng tự vệ đôi khi đẩy con người ta đến những quyết định và hành động mù quáng không thể hiểu nổi. Nhưng tôi ngấm một điều rằng, đã là định mệnh rồi, cuộc đời đã được lập trình rồi, thì chạy đâu cho thoát dưới gầm trời này?
30
Hội chợ bao giờ cũng là dịp để đám thanh niên, nhất là ở các vùng ngoại ô, kéo vào trung tâm thành phố chưng diện quần áo mốt mới và túm năm tụm ba ăn thịt nướng, uống rượu bia, hôn hít, hò hẹn tại các quán dựng lên tạm bợ ngay trên quảng trường Trung tâm. Thời tiết mấy hôm nay ấm lên, mặc dù thỉnh thoảng vẫn lất phất tuyết rơi. Những bông tuyết trắng tinh rơi xuống và tan ngay trên lưng mấy con ngựa nâu mồ hôi bóng nhãy đang kéo những cỗ xe kiểu thời Trung cổ chạy xung quanh quảng trường để phục vụ khách tham quan, đặc biệt là trẻ con. Những chiếc chuông đồng đeo dưới cổ chúng phát ra những âm thanh leng keng khiến không khí của hội chợ như lùi về hàng mấy thế kỷ trước. Tại hội chợ lần này có nhiều nước tham dự. Mãi đến phút cuối cùng, tôi mới biết là mình được phân công đi viết tại Hội chợ Slobozan này theo Công ty xuất nhập khẩu Mỹ nghệ Tây Hồ. Buổi sáng đầu tiên của tôi tại quảng trường Trung tâm thành phố K. sau mười bốn năm xa cách, thật không bút nào tả xiết. Trên bàn trước mặt là một bát phở bò tái bốc hơi nghi ngút như thể vừa được chở thẳng từ quán phở Thìn ở Hà Nội sang vậy. Một đĩa chanh, lọ tương ớt, dấm tỏi và... những bông tuyết trắng rơi chầm chậm ngoài khung cửa sổ của quán ăn Mo-An-Vi. Bất chợt, một vạt áo dài kiểu tím Huế dừng lại bên cạnh bàn tôi và từ trên cao, một giọng tiếng Việt lơ lớ, ngộ nghĩnh vọng xuống:
- Chú cần dùng gì nữa không ạ?
Tôi ngẩng đầu lên khỏi bát phở. Và cảm thấy bị nghẹn ở cổ vì sắc đẹp của cô gái phục vụ đứng bên cạnh. Một cảm giác hạnh phúc dâng lên trong lòng giống như bất ngờ được thưởng thức một tác phẩm nghệ thuật đặc sắc vậy. Xương sống cảm thấy gai gai lạnh. Tôi nói ấp a ấp úng:
- Không, à , cháu có thể lấy cho chú cốc bia?
Tôi nhìn theo thân hình uyển chuyển của cô phục vụ đi về phía quầy bar. Có lẽ, không chỉ riêng tôi mà tất cả mọi người trong đoàn công tác ngồi ở các bàn xung quanh đó cũng dừng đũa lại và đưa mắt nhìn theo, kể cả hai chị phụ nữ đã có tuổi. Mọi người đưa mắt nhìn nhau như ngầm trao đổi một ý nghĩ: Cô gái quả là tuyệt đẹp. Một vẻ đẹp khiến người ta phải lặng đi. Một vẻ đẹp khiến người ta cảm thấy thật đáng sống trên cõi đời này!
Tôi cứ nhìn mãi vào vết các ngón tay của cô gái còn in lại trên lớp thủy tinh của cốc bia trên bàn mà không khỏi có ý nghĩ. “Thật phí cho một nhan sắc như vậy mà lại làm nghề hầu bàn. Chỗ của cô phải là trên sân khấu hay minh tinh màn bạc chứ không phải suốt ngày nói mấy câu: “Ông hay bà cần dùng gì?”
Khi chúng tôi đứng dậy ra khỏi quán để về khu triển lãm của mình, bà chủ quán người Việt đon đả đi ra đứng ngay cửa mà nở nụ cười xởi lởi.
- Mời các anh buổi trưa quay lại dùng bữa cơm Việt Nam nhé!
- Không cần ăn chúng tôi cũng quay lại, bà chủ ạ! - một cậu thanh niên trong đoàn nói đùa một cách nghiêm túc.
Còn riêng tôi lại có ý định chụp được một tấm hình cô ấy trong bộ áo dài Việt Nam, đứng trước gian hàng Mỹ nghệ Việt Nam để minh họa cho bài phóng sự sắp tới. Ngay buổi tối hôm đầu tiên, đến khách sạn là tôi tìm cách gọi điện để hỏi thăm về anh Trọng và Tachiana. Có lẽ, đây cũng là mục đích chính của riêng tôi trong chuyến đi này. Mười bốn năm đã trôi qua, bao nhiêu sự kiện bao nhiêu đổi thay! Tôi bắt tắc-xi tới Tòa soạn báo “Văn Lang”, nhưng thất vọng vì ngôi nhà đó bây giờ đã có chủ khác. Buổi trưa hôm khai mạc triển lãm, ngồi ăn cơm trong quán Mo-An-Vi, tôi bất chợt nhìn thấy một tờ báo của Hội người Việt Nam để trên mặt quầy bar. Tờ báo đã lấy một cái tên khác, “Người Việt”. Tôi xem lướt qua và không nhìn thấy trong đó một cái tên nào quen cả. Tôi đang đảo mắt tìm bà chủ quán để hỏi thì chính bà lại từ phía nhà trong đang đi ra.
- Anh muốn gọi thêm món gì nữa?
- Không ạ. Chị có biết ở đây có ai tên là Trọng không?
- Ở đây có mấy Trọng, anh muốn hỏi Trọng nào?
- Trọng - Tổng giám đốc, một doanh nhân giàu có.
- Thế thì tôi không biết, ở đây chỉ có Trọng “rau” thôi.
- Sao lại Trọng Rau?
- Vì ông ấy chuyên trồng rau tươi ở ngoại ô K. rồi đem vào bán cho các quán ăn và khu nhà ở của người Việt. Suốt ngày lầm lầm lì lì, chẳng tiếp xúc với ai.
- Thế thì không phải rồi - tôi nói, giọng thất vọng.
- Thế còn ai tên là Trọng nữa? À thế vợ ông ấy tên là gì?
- Hình như ông ấy ly dị vợ rồi. Vợ người Ucraina. Cô Xuân phục vụ bàn ở đây là con của ông ấy đấy.
- Thật thế à? - tôi thốt lên vẻ kinh ngạc. - Vợ có phải là một nhạc sĩ vĩ cầm nổi tiếng không?
- Tôi cũng không rõ. Anh thử hỏi con ông ấy xem.
- Cô Xuân có ở đây không?
- Khoảng hai tiếng nữa mới đến ca của cô ấy. Nhà cô lại ở tận ngoại ô, đi vào đây cũng khá xa, phải chuyển mấy lần phương tiện giao thông công cộng. Anh cứ ngồi đấy chờ, cần dùng gì gọi tôi nhé!
Nói xong, bà chủ cửa hàng đi khuất vào bên trong. Còn phải chờ hai tiếng nữa, tốt nhất là đi bách bộ một vòng qua các phố trung tâm thành phố, những nơi mà một thời tuổi trẻ của tôi đã trôi qua. Đường phố vẫn như xưa. Phố chính Puskin vẫn ồn ào náo nhiệt. Vẫn tiếng chuông leng keng của chiếc tàu điện số 5 chạy xuyên suốt thành phố từ bến Odeska đến tận Công viên Gorki. Tôi thích nhất là Công viên “Ngọn lửa vĩnh cửu”, thời sinh viên, nhiều hôm cả ngày thứ bảy tôi mang sách ra đây học, ăn bánh rán tại mấy quán ăn ở đó, rồi nằm ngay lên chiếc ghế băng dưới vòm cây đánh một giấc như những kẻ vô gia cư. Thỉnh thoảng, tiếng chuông nhà thờ lại vang lên âm vang trên những tán lá cây lao xao, ríu rít tiếng chim sẻ. Bây giờ ở đây đã thành một phố tranh, các họa sĩ đem các tác phẩm hội họa, điêu khắc của mình ra đây bán. Tôi quyết định mua một bức để làm kỷ niệm cho chuyến đi này. Không có gì hạnh phúc bằng được quay trở lại thành phố của thời sinh viên sôi nổi, đầy hoài bão, ước mơ, nơi mà anh đã run rẩy trao những nụ hôn đầu tiên của cuộc đời. Các tình cảm khác nhau đang dâng trào lên dưới tác động của khung cảnh xung quanh, ánh mắt của các thiếu nữ xinh đẹp ẩn dưới những chiếc mũ lông chồn, lông cáo bóng mượt, những bông tuyết trắng bám lên cành cây trông như những đóa san hô khổng lồ... bỗng bị thắt lại bởi ý nghĩ về gia cảnh của anh Trọng. Lẽ nào, một con người tài năng, giàu nhiệt huyết và hoài bão như anh lại chịu chôn vùi cuộc đời của mình tại đây bằng cái nghề trồng rau đem bán cho các nhà hàng để kiếm sống. Tôi vẫn còn nhớ hình ảnh của anh khi đứng trên bờ biển Nha Trang bộc bạch những ước mơ, hoài bão về cuộc “Cách mạng Biển”, về những dự định lớn lao... Thật chẳng khác gì bị dội một xô nước băng tuyết lên đầu. Còn Tachiana nữa, số phận của cô ra sao? Tôi thực sự không hiểu nổi và sốt ruột chỉ mong được gặp con người đầy bí ẩn đó. Kẹp bức tranh sơn dầu vừa mua được dưới nách, tôi rảo bước quay trở lại Hội chợ. Đi được một đoạn, tôi dừng lại vì sực nhớ ra mình quên lấy lại tiền thừa. Thôi thì, đấy cũng là một cách góp phần phát triển nghệ thuật Hội họa thế giới nói chung. Với ý nghĩ đó, tôi lại tiếp tục rảo bước nhanh hơn về phía quảng trường Trung tâm.
31
Con đường từ bến tàu điện vào đến làng bị tuyết phủ trắng xóa. Ở ngoài này gió rít từng cơn khiến những đám tuyết vướng trên ngọn cây rơi xuống rào rào. Xuân thoăn thoắt sải những bước chân dài đi phía trước, còn tôi hấp tấp đi như chạy ở phía sau, khó lắm mới theo kịp, lưng ướt đẫm mồ hôi. Thỉnh thoảng, cô bé phải dừng lại chờ tôi.
- Ngày nào cháu cũng phải đi một quãng đường xa như thế đến chỗ làm sao? - tôi vừa thở hổn hển vừa hỏi.
- Cũng quen đi chú ạ. Chú đã ở đây rồi ạ?
- Chú học ở đây. Khi đó cháu chưa có mặt trên thế gian này.
- Vừa nãy chú nói là quen cả bố mẹ cháu, nhưng sao trong các tập album của gia đình cháu không thấy có chú? Chú có đến dự đám cưới của bố mẹ cháu không?
- Rất tiếc là không. Chú cũng đang rất lo là bố cháu không biết còn nhớ chú hay không đây.
- Lúc ở chỗ làm, cháu gọi điện thoại cho bố, nói tên chú, nhưng quả là bố cháu không nhớ ra. Nhưng không sao, chú cứ yên tâm, cứ là người đồng hương Việt Nam là tốt rồi. Bố cháu cũng đỡ buồn, chứ suốt ngày cứ chúi mũi vào viết lách cũng chán lắm, đấy là cháu nghĩ như thế.
- Bố cháu viết gì thế?
- Cháu cũng không rõ. Bố không cho ai đọc cả và giữ rất cẩn thận từng tờ bản thảo. Kia rồi, nhà cháu kia.
Trước mặt tôi là một dãy nhà một tầng bị tuyết bao phủ trên nóc nên trông có vẻ thấp như những chiếc nấm con. Mùa hè ở đây chắc là rất đẹp, nhưng mùa đông trông đìu hiu cô quạnh. Đến lúc này, tôi mới hiểu rằng mình đang đứng trước cửa một kho báu quí, kho báu của những số phận con người rất không bình thường trong một xã hội mà đại đa số chỉ cam chịu và thỏa mãn với những việc làm bình thường.
- Anh còn nhớ em không? - Tôi lên tiếng trước như muốn thay cho một lời chào.
- Lúc cháu nó gọi điện nói thì tôi không nhớ ra, nhưng bây giờ nhìn thấy anh, tôi nhận ra ngay. Anh thuộc loại người trẻ lâu, ít thay đổi theo năm tháng.
- Anh cũng vậy, chỉ có bộ râu quai nón trông chưa quen thôi.
- Thôi, vào đi chứ, sao cứ đứng ở ngưỡng cửa mãi thế? Xuân, con vào bếp chuẩn bị món gì đãi khách nhé, cá bố để trong xô dưới tầng hầm, con tẩm bột rán lên uống rượu - rồi anh vừa chỉ chiếc ghế bành ở giữa phòng vừa nói - Câu cá trên sông đóng băng thú lắm, anh còn ở đây bao lâu, nếu có thời gian ra sông câu một bữa cho biết mùi?
- Hai hôm nữa thôi, xong Hội chợ là về. Anh có cô con gái xinh quá, vẻ đẹp khiến ai cũng phải ghen tỵ.
- Nó vừa phải đi học vừa phải đi làm nên khá vất vả - anh nói và im lặng một lát - Cháu nó học trường múa ba-lê mang tên Maia Paliseiskaia.
- Lại theo con đường nghệ thuật như mẹ cháu - Tôi nói và hình như trong câu nói của tôi có ẩn chứa một điều gì đó ngụ ý xa xôi khiến không khí trở nên chùng hẳn xuống. Tôi biết mình lỡ lời, nên vội nói lảng đi - Lâu lắm mới lại được nhìn thấy tuyết rơi, cứ như đang ngủ mơ vậy.
- Anh cứ ngồi đây một lát nhé, tôi xuống bếp xem con bé nó làm gì để đãi khách quí phương xa - anh Trọng tránh câu hỏi của tôi và đi xuống bếp.
Tôi ngồi lại một mình và đưa mắt quan sát căn phòng. Đồ đạc trong phòng giản dị nhưng sạch sẽ và ngăn nắp. Điều đập ngay vào mắt là trên các bức tường treo rất nhiều tranh sơn dầu, mà tất cả đều về Biển. “Giấc mơ biển vẫn không buông tha con người này”, tôi thầm nghĩ. Tôi đứng dậy và tiến tới xem kỹ từng bức tranh, chú ý những dòng chữ đề tựa ở góc: Crưm - Hoàng hôn, Ianta - Mưa trên vịnh, Hoài niệm Nha Trang, Ra khơi - bốn bức tranh treo liền nhau trên bức tường đối diện lò sưởi, có lẽ, gây được ấn tượng hơn cả: Bốn mùa của Biển.
- Tại sao anh lại nhớ đến tôi nhỉ? - từ dưới bếp đi lên, anh Trọng tay bưng lọ dưa chuột muối, hỏi. - Nếu tôi không nhầm thì chúng ta chưa có dịp nào ngồi nói chuyện lâu với nhau?
- Khi tôi rời khỏi thành phố này thì anh đang công tác dưới Crưm, anh có nhớ không?
- Nhớ chứ. Chính anh là người làm dòng sông của cuộc đời tôi đổi dòng.
- Tôi á? Tại sao lại là tôi?
- Đấy là tôi đùa thôi. Số phận con người ta chẳng khác nào những cú va đập của hòn bi-a, không lường trước được. Anh chỉ là một cú huých đầu tiên thôi.
Xuân mặt đỏ hồng vì đứng gần bếp, nhanh nhẹn bưng lên đĩa cá rán và ổ bánh mỳ đã thái lát xếp đều tăm tắp trong chiếc giỏ con. Chỉ mấy phút sau, bàn ăn đã được bày biện tươm tất.
- Đây là rượu nho của nhà trồng lấy, anh nếm thử nhé - anh Trọng lễ mễ khiêng hũ rượu bằng gỗ từ dưới hầm nhà lên.
Hai chúng tôi cụng chén vì dịp hội ngộ bất ngờ này.
- Anh có hay về nước không? - tôi hỏi, làm ra vẻ như không biết gì.
- Từ hồi ấy đến giờ tôi vẫn gửi tiền chu cấp cho bọn trẻ ăn học. Tất nhiên, cũng không được nhiều nhặn gì. Trước sau mình cũng sẽ trở về cố hương thôi, nhưng bây giờ chưa phải lúc.
Một thoáng im lặng trôi qua. Có lẽ, qua ánh mắt của tôi, anh đoán ra được những ý nghĩ trong đầu mà tôi không tiện nói ra. Sau mấy cốc rượu vang, anh chủ động vào đề trước:
- Chắc anh đến đây cũng có ý muốn biết xem cuộc sống của tôi nó ra làm sao phải không? Tôi hạnh phúc hay bất hạnh, thành đạt hay thất bại trong cuộc đời này? Nói tóm lại, anh muốn biết sự thật về con người tôi, về cuộc sống của tôi ở bên này, có đúng thế không? Nhìn mắt anh là tôi biết, dù anh có thể nói lời phủ nhận. Hơn nữa, anh lại theo cái nghiệp báo chí, văn chương. Biết đâu tôi lại chẳng trở thành một nhân vật nào đó trong tác phẩm của anh? Nhưng anh biết đấy, làm gì có ranh giới rạch ròi giữa sự thật và giả dối. Trong một thời điểm nào đó, anh có cảm giác rằng mình đã nắm bắt được sự thật trong lòng bàn tay, nhưng rồi nó lại trôi tuột đi qua các kẽ ngón tay. - Dừng lại một lát để châm điếu thuốc, rít một hơi thật dài, nhả khói thành những vòng tròn nho nhỏ lên không trung, anh nói tiếp - Bạn bè trong nước thăng quan tiến chức ông này ông kia, còn tôi thì chui vào cái xó heo hút này, không có danh vọng để làm chỗ dựa tinh thần, không có tài sản để ra oai làm phách với thiên hạ.
- Anh đã từng có tất cả những cái đó.
- Nhưng cái làm tôi quyết định không quay trở lại Việt Nam - anh dừng lại một lát như để tìm kiếm ý và từ diễn đạt - nói thế nào để anh hiểu nhỉ? Bởi vì tôi đã chán ngấy cái cuộc sống trong sự giả dối mà hàng ngày tôi phải đối mặt, từ cơ quan cho đến gia đình. Hàng chục năm trời, tôi không được sống thật với chính bản thân mình, lúc nào cũng như đang phải diễn một vai kịch nào đó: Khi thì là một anh chồng thành đạt, hạnh phúc bên người vợ hiền thục, lúc lại là một cấp dưới ngoan ngoãn luôn luôn phục tùng cấp trên... Trong con người tôi, cái khát vọng được sống trong sự thật cứ lớn dần lên, mỗi ngày một tí và vào thời điểm tôi gặp Tachiana tại đây, trong nhà tù... Chính từ cái khoảnh khắc đứng trước mặt cô, nhìn thấy đôi bàn tay cô bị còng, cuộc sống của tôi đột ngột đảo lộn, tôi cảm thấy mình không thể sống như trước được nữa và thế là tôi đã quyết định không mảy may dao động, đắn đo và cho đến bây giờ tôi không hối hận gì vì quyết định này cả. Con người ta vẫn thường hay lầm lẫn giữa tình yêu và những tình cảm na ná tình yêu. Tôi không bào chữa cho quá khứ của mình. Lan Hương là một người vợ tốt, không có gì đáng phải phàn nàn. Chu đáo, quán xuyến việc gia đình. Mặc dù tôi biết khi lấy tôi cô ấy không còn trinh trắng nữa. Điều này chỉ được hiểu ngầm giữa hai vợ chồng và cũng không ai nói thành lời. Tôi biết ở nhà người ta lên án và chửi tôi không ra cái gì, thậm chí còn bị xem là tội phạm bỏ trốn. Mọi đổ bể, làm ăn thua lỗ sau này trong Tổng công ty, người ta cứ đổ hết lên đầu tôi. Thật hợp lý quá còn gì? Có tội mới chạy chứ. Song, sẽ có một ngày tôi quay trở về và vạch mặt thật của họ, của những con người sống trong sự dối trá đó, mà tôi vừa là nạn nhân vừa là kẻ đồng lõa. Họ đã biến một con người như tôi, mang trong mình bao dự định và hoài bão tốt đẹp cho đất nước, trở thành một kẻ sống lưu vong chỉ vì tôi muốn sống trong sự thật và nói lên sự thật, chỉ vì tôi đã bước qua lằn ranh giới, đã phá vỡ luật chơi của họ và bị loại ra. Những năm tháng sống ở nước ngoài cho phép tôi có thời gian và khoảng cách để nhìn lại chính bản thân mình, nhìn lại con đường mình đã chọn và cái đích để đi tới cho cả phần đời còn lại. Nào rót tiếp đi chứ, sao anh cứ ngồi không thế?
“Ông này lại biện hộ cho hành động bỏ vợ của mình để chạy theo người trẻ hơn, đẹp hơn rồi. Không hiểu ông ấy đã biết Tachiana là con của vợ mình chưa nhỉ?” tôi nhủ thầm trong bụng.
Từ phòng bên cạnh, vọng sang tiếng đàn dương cầm của Xuân. Chỉ bằng mấy hợp âm thánh thót đó thôi, cả ngôi nhà trở nên sống động hẳn lên. Cái lạnh lẽo của mùa đông bên ngoài cửa sổ bỗng tan biến đâu mất. Dường như, ngọn lửa đang nhảy nhót trong lò sưởi cũng lung linh như trong một vũ điệu Digan vậy.
- Anh ngồi đây nhé, tôi ra ngoài lấy thêm ít củi - anh nói và đi ra phía cửa. Anh khoác lên người chiếc áo lông màu bộ đội đã cũ bạc. Cánh cửa gỗ khép lại song cũng còn kịp để lọt vào một luồng khí lạnh đượm mùi ẩm thấp của khu vườn mùa đông phủ đầy tuyết. Chiếc móc sắt trên cửa lúc la lúc lắc, lách cách gõ vào nắm đấm cửa bằng sắt như một giai điệu đồng quê nơi thôn dã tĩnh mịch. Tới lúc này tôi mới để ý tới một chú mèo tam thể đang đứng trên hai chân sau, cào cào móng vuốt lên cánh cửa. Không rõ chú ta đã nằm sẵn ở đó từ trước hay là mới từ ngoài lọt vào.
- Dù sao anh cũng đã đến đây rồi, tối nay ngủ lại thôi, thú thật là tôi cũng chẳng có khách mấy đâu - quẳng những thanh củi được cắt thành khúc ngắn xuống cạnh bức tường của lò sưởi, anh Trọng phủi đám mùn cưa bám trên áo, nói.
Căn phòng nóng sực lên và thơm phức mùi gỗ thông. Anh hỏi thăm tôi về tình hình trong nước. Anh chẳng giấu diếm sự bất đồng của mình với một số tệ nạn xã hội và anh khăng khăng cho rằng các hệ thống tư tưởng lớn đã hết thời.
- Lịch sử của Việt Nam một trăm năm đổ lại đây cũng cần phải xem xét lại, đánh giá chưa được công bằng cho nhiều sự kiện và nhân vật lịch sử.
- Thì cũng như anh vừa nói đấy thôi, làm gì có ranh giới rạch ròi giữa sự thật và giả dối, nhất là trong chính trị.
Anh Trọng nói rất nhiều, chuyển hết từ đề tài này sang đề tài khác, anh cũng để lộ cho tôi biết là đang soạn thảo một bức thư ngỏ tâm huyết gửi lên chính phủ về chiến lược phát triển biển của Việt Nam cho một trăm năm tới. Khi nghe anh nói đến đây, tôi bỗng nhớ có một lần anh bạn tôi làm ở bên cục lưu trữ quốc gia phàn nàn rằng: hàng năm, cục phải tiếp nhận và thanh lý hàng đống tài liệu từ khắp các miền trong nước và cả ở nước ngoài gửi về. Tác giả của các công trình đó đã “hiến kế bày mưu”cho chính phủ bằng cách nào đó nhanh nhất, ngắn nhất đưa Việt Nam trở thành một nước tiên tiến trên thế giới. Một mưu sĩ gia đã đưa ra một kế sách như sau: Yêu cầu chính phủ Nga cho mượn tên lửa vượt đại dương để bắn thẳng vào Bắc Cực ở một góc nhất định khiến cho trục trái đất lệch đi khoảng mười độ, nhờ đó Việt Nam trở thành nước ôn đới. Theo như mưu sĩ này, chỉ có các nước ôn đới mới có thể phát triển nhanh về mọi mặt. Cái nóng của các nước nhiệt đới làm cho “chó còn phải há mồm ra mà thở” thì con người làm sao mà nghĩ ra được cái gì hay ho cơ chứ? Con số hàng trăm hàng ngàn hồ sơ phát minh sáng kiến ấy cho thấy một tinh thần yêu nước nồng nàn, nhưng đồng thời cũng là một dấu hiệu đáng lo ngại về sức khỏe tâm thần không ổn của họ.
Chính kiến của người sống ở trong nước và ở nước ngoài rất khác nhau. Bởi vì, tư duy của con người ta được chỉ đạo và xử lý tự động bởi những niềm tin và giả định đã ăn sâu vào tiềm thức. Hơn nữa, qui trình này lại nằm trong vòng xoáy tự gia cường. Con người thông qua cách tư duy của mình thường chỉ chọn lọc những thông tin phù hợp với cách nghĩ của mình. Do môi trường sống khác nhau dẫn đến chính kiến thường khác nhau. Và, những cuộc cãi vã đó cuối cùng chỉ đi đến kết cục, ai cũng nghĩ là mình đúng còn người khác thì sai, gàn dở và thiển cận. Hơn nữa, tôi lại đang ở địa vị một người khách, tốt hơn hết nên làm một thính giả im lặng chăm chú lắng nghe, thỉnh thoảng lại gật đầu ra vẻ đồng tình và nếu hứng lên còn thốt ra những câu đại loại như “Đúng, thật là một ý tưởng độc đáo” hoặc “Anh mà không nói lên thì thật lãng phí cho đất nước”.
Nhưng nếu cứ miên man về các đề tài chính trị như thế này thì mục đích chuyến viếng thăm anh Trọng sẽ không thực hiện được. Nhân một lúc im lặng để đưa thức ăn và rượu vào miệng. Tôi lái câu chuyện theo hướng mình cần.
- Tachiana phải ngồi tù từ thời Cách mạng Cam hả anh?
- Cô ấy là nạn nhân của Cách mạng thì đúng hơn. Người ta mượn tay cách mạng để thanh trừng đối thủ, nói tóm lại để làm tiền, làm tiền bằng con đường ngắn nhất, nhanh nhất. Nhiều năm tiếp sau, mảnh đất này đã phải chứng kiến một cuộc tranh giành xâu xé tài sản quốc gia, nhà máy, đất đai, các nguồn vốn đầu tư nước ngoài giữa các tập đoàn tài phiệt lớn. Bản chất của chính trị là chia trác, ở đâu cũng vậy thôi. Người ta sử dụng tiếng đàn của cô ấy vào mục đích chính trị. Còn chính bản thân cô bị đồng nghiệp ghen tỵ, lập mưu đẩy vào tù.
- Lại còn thế nữa sao? Ngay giữa lòng châu Âu văn minh.
Anh Trọng phẩy tay một cái đầy vẻ bất bình và cũng bất lực, nhưng không nói gì. Cả hai chúng tôi đều im lặng một lúc lâu. Từ trong lò sưởi phát ra những tiếng nổ lép bép của củi khô bị nứt, tiếng xèo xèo của dầu gỗ cháy. Anh Trọng ngồi trầm ngâm, mắt nhìn không chớp vào ngọn lửa, đầu hơi ngả ra phía sau, bàn tay trái xoay xoay cốc rượu, cánh tay phải gác trên thành ghế để buông thõng xuống. Ở trong tư thế này, anh trông già sọm hẳn đi. Ánh lửa hắt lên khuôn mặt khiến các nếp nhăn trên trán hằn sâu hẳn xuống. Ngọn lửa nhỏ chập chờn in trong tròng mắt của anh trông như một cuốn sách đang tự động lật giở những trang ghi dày đặc của mình. Quá khứ ào ạt trở về, đột ngột như sự xuất hiện của người khách đang ngồi bên cạnh anh vậy.
32
Xưởng làm mì dưới tầng hầm của khu trại giam chính rất ồn vì tiếng động cơ của các máy ép. Các nữ tù nhân đi lại thoăn thoắt giữa bàn máy cắt và các tủ sấy để dọc bốn bức tường. Họ chẳng nói với nhau một câu nào, thảng lắm cần phải trao đổi điều gì họ thường làm hiệu bằng tay. Ai nấy đều đeo khẩu trang và đội mũ bảo hộ nên chỉ trông thấy hai con mắt với những hàng mi trắng vì dính bột mì.
Cánh cửa ra vào ở gần cầu thang chợt bật mở, rọi một luồng ánh sáng trắng xuống nền xưởng gồ ghề, ướt át và ẩm thấp. Tiếp theo sau là bà quản giáo Rita cao lênh khênh, môi tô son đỏ chót, bước vào. Bà ta đưa mắt nhìn quanh khắp xưởng một lượt như thể muốn tìm ai, rồi đưa tay lên ra hiệu với một người phụ nữ mặc chiếc áo khoác màu xanh lá cây. Chị này vẽ lên không trung một dấu hỏi, ý muốn bảo cần gặp ai. Bà Rita giơ các ngón tay theo số tù, 304. Người phụ nữ bỏ giở công việc bên chiếc máy của mình và bước lại phía góc xưởng. Chị bước đến sau lưng và vỗ nhẹ vào vai người phụ nữ đang cúi xuống dùng dao cạo chỗ bột bám vào các dàn kim loại để sấy mì.
- Tachiana, cô ra bà quản giáo hỏi!
- Quản giáo cho gọi tôi à?
Đúng lúc đó Tachiana nhìn ra phía cửa và thấy bà Rita đang giơ tay lên vẫy. Tachiana bước lại ấn nút tắt lò sấy, tháo khẩu trang đeo mặt ra và hấp tấp bước lại phía cửa. Mọi người xung quanh đều dừng tay ngoái đầu nhìn theo với ánh mắt tò mò. Cánh cửa sắt nặng trịch sau lưng hai người khép lại. Tiếng ồn của động cơ cũng tắt ngấm như thể sau hai vòng xoáy của chiếc chìa khóa to tổ bố trong tay, bà Rita đã giam nó lại cùng với những người phụ nữ âm thầm và lặng lẽ như những cái bóng. Bên ngoài sân, mùa xuân đã tới từ lúc nào. Tachiana bước đi theo bà quản giáo, song ánh mắt của chị nhìn chăm chú xuống mặt đất để tránh không dẫm lên những mầm cỏ non xanh mơn mởn mới nhú, còn run rẩy trên nền đất vừa tan tuyết giá. Chị hít một hơi thật sâu làn gió lạnh đã không còn buốt nữa và bên tai vẳng nghe tiếng kêu ríu rít vang động không trung của những con chim di trú bay thành đàn trên nền trời vẫn còn xam xám, ảm đạm nhưng phía chân mây xa đã nhuốm những ánh vàng tươi mát. Những thân cây bạch dương lẻ loi bên kia bức tường xám như thể đã bắt đầu cựa mình, tiết ra những dòng nhựa trắng trong suốt xuyên qua lớp vỏ cây xù xì, sáng lấp lánh.
- Theo qui định, thời gian gặp chỉ mười lăm phút, nhưng vì mến mộ chị, tôi cho thêm mười lăm phút nữa, rõ chưa. Phải người khác là người nhà phải trả tiền đấy - bà Rita không quay lại, nói bằng một giọng hơi đanh kiểu bề trên. Tachiana cảm thấy thấm thía sự cay đắng của vị trí mình đang lâm vào, chị không nói gì, cũng chẳng cảm ơn, mà chỉ nuốt khan một cục gì đó cứ như muốn chẹn ngang cổ họng vậy.
“Một người đàn ông Việt Nam? Ai vậy nhỉ?” Tachiana phân vân nghĩ thầm trong bụng.
Ba tháng ngồi trong nhà tù là thời gian đủ để chị suy ngẫm lại cuộc đời mình xoay vần quanh bốn bức tường đá: danh vọng, tiền bạc, bạn bè và tình yêu. Một cảm giác thất vọng, chán nản hay chính xác hơn là ghê tởm đối với con người đã giam cầm vào ngục thất của cõi lòng mọi tình cảm tốt lành khác. Cái làm chị kinh ngạc nhất là sự tàn nhẫn và độc ác như loài cầm thú của chính những người vẫn được mệnh danh là trí thức là nghệ sĩ có văn hóa cao. Đúng là văn hóa càng cao, thủ đoạn càng tinh vi và thâm hiểm. Những con người này như tìm thấy mục đích cuộc sống của họ trong việc hạ nhục và đầy đọa những người đối lập không cùng chính kiến và tài năng hơn họ, chị là một nạn nhân điển hình. Như một con chim ưng non vừa cất những đường bay tuyệt vời đầu tiên trên vòm trời âm nhạc, lập tức bị đàn diều hâu xúm vào cấu xé với một niềm thích thú điên cuồng. Tội của chị là ở tài năng, sắc đẹp và nguồn gốc dị tộc.
Đôi ủng cao su đen trong lót vải thô nặng trịch của chị để lại trên sàn hành lang dài hun hút những vết đất bùn pha bột mì trăng trắng. Các vết bẩn này dừng lại trước một tấm cửa sắt nặng trịch, sơn màu xám và có một ô cửa hình tròn thông ra ngoài phòng đợi của người nhà tù nhân. Rita kéo chốt mở ô cửa sổ ra. Từ ngoài lọt vào những âm thanh nhốn nháo của đám người đang đứng chờ đến lượt mình: tiếng trẻ con khóc, tiếng cãi cọ nhau, rồi có tiếng của một người đàn ông đã ngà ngà say đang nói oang oang về vụ khủng hoảng dầu khí giữa Nga và Ucraina đang làm quan hệ hai nước căng thẳng như thể sắp nổ ra chiến tranh... Chợt, một khuôn mặt non choẹt với hàng ria mép con kiến của viên cảnh sát ở ngoài hiện ra trong ô cửa:
- Giấy đâu?
Rita đút qua lỗ hổng mẩu giấy nhỏ. Tachiana đoán là giấy phép của giám đốc nhà tù.
Khuôn mặt biến mất. Lỗ cửa trống hoác.
- Còng tay vào! - Trong khuôn cửa tròn lại xuất hiện chiếc miệng với đôi môi dày và hàng ria mép khẽ nhếch lên.
Tachiana đưa hai tay ra phía trước, suýt bật khóc vì thấy bàn tay của mình trông sần sùi và nứt nẻ vì lao động nặng. Rita tháo chiếc còng số tám khỏi thắt lưng của mình và lạnh lùng rập nhanh vào hai cổ tay của tù nhân. Tiếng chìa khóa tra vào ổ loạch soạch vang lên và ngay sau đó là tiếng rít ken két của bản lề hoen gỉ.
- Bước ra đi còn chần chừ gì nữa!
Gian phòng đợi rộng lớn đang ồn ào chợt trầm hẳn xuống. Mọi người quay cả lại nhìn. Một giọng nữ của ai đó không kìm được sự ngạc nhiên, thốt lên:
- Nữ nghệ sĩ vĩ cầm Tachiana!
Có lẽ, mọi người có mặt lúc đó đều thực sự bị bất ngờ vì sự hiện diện của nghệ sĩ nổi tiếng, là thần tượng của nhiều người nhất là thanh niên, trong một bộ dạng khó tưởng tượng: trên người là bộ quần áo tù sọc đen trắng bằng vải gai thô đã bạc thếch, hai tay bị còng.
Bỗng, một bà cụ già, đầu chít khăn len đen, len lỏi từ phía cuối phòng chờ đi thẳng đến chỗ Tachiana đang đứng. Cụ hấp tấp lấy trong làn ra một gói đồ ăn, chắc là để tiếp tế cho người thân đang ngồi trong này, dúi vào tay Tachiana và bằng một giọng run run, xúc động, nói:
- Con cho phép mẹ được tặng cho con món quà nhỏ này, đây là tấm lòng thành của mẹ, người mẹ của một đứa con tội lỗi, một kẻ giết người đang chờ án tử hình. Con có biết không, chính thằng con của mẹ đã yêu cầu được nghe những bản nhạc và lời ca của con trong xà lim thụ án. Âm nhạc của con đã làm cho lòng người mẹ đau khổ ấm lại. Con... con cho phép mẹ được hôn bàn tay kỳ diệu dù chỉ một lần thôi mẹ cũng thấy mãn nguyện - rồi, bà cúi xuống hôn tới tấp lên hai bàn tay đang bị còng của chị. Chị lặng người đi khi nhận thấy những giọt nước mắt của bà mẹ bất hạnh vô danh rơi trên mu bàn tay thô rám của mình.
Có lẽ, đây là phần thưởng vô giá nhất đối với người nghệ sĩ mà nhờ chúng, chị đã vượt qua được những năm tháng đen tối nhất của đời mình, và còn hơn thế nữa, chị đã cho ra đời một nhạc phẩm xuất sắc viết cho đàn violon được xếp vào hàng cổ điển.
33
Qua ô cửa kính của phòng chờ, Trọng được chứng kiến tận mắt toàn bộ cảnh tượng vừa xảy ra như một màn kịch không cần lời thoại. Cảm giác gai gai chạy dọc sống lưng. Một linh cảm không bình thường bám riết lấy tâm trí anh khiến dây thần kinh căng lên như dây đàn. Anh căng mắt nhìn thân hình cao dong dỏng của Tachiana đi ở ngoài hành lang, đầu không cúi xuống, mắt nhìn thẳng về phía trước một cách tự tin và điềm tĩnh. Chị không nhìn thấy anh và đi khuất vào cuối dãy hành lang dài hun hút. Trọng bước lùi trở lại, ngồi xuống chiếc ghế để sau chiếc bàn con duy nhất trong căn phòng nhỏ trống trải. Nhưng không hiểu sao anh lại đứng dậy, bồn chồn đi đi lại lại từ cửa ra vào đến cửa sổ và ngược lại. Tiếng tíc tắc của chiếc đồng hồ treo tường cũ kỹ càng làm anh sốt ruột thêm. Một phút, hai phút... bên ngoài vọng vào tiếng chìa khóa tra vào ổ, tiếng cửa đóng sập lại và giọng của viên quản giáo nói gì đó, câu được câu mất. Tiếng giày đinh gõ trên sàn gỗ to dần lên, rồi cánh cửa bật mở.
Trọng đứng khựng lại bên cạnh bàn. Trong khung cửa, Tachiana cũng chững người lại vì ngạc nhiên. Ánh mắt chị nói lên rằng chị đã nhận ra anh.
- Anh... là...? - chị khẽ thốt lên bằng tiếng Việt, thứ tiếng đã lâu chị không dùng.
- Cô còn nhớ... Nha Trang không?
- Anh mới từ Việt Nam sang? Tại sao anh biết em ở trong này mà đến thăm?
Cánh cửa sắt sau lưng Tachiana đóng sập lại. Hai người đứng lặng đi một lúc trong căn phòng nhỏ hẹp tranh tối tranh sáng. Luồng sáng mờ mờ của một ngày cuối đông từ chiếc cửa sổ nhỏ trên tường chiếu thẳng xuống chiếc bàn gỗ, tạo nên một khoảng sáng hình vuông bị cắt thành sáu mảnh nhỏ bởi những thanh trấn song sắt bên ngoài.
Nhiều năm sau này, Trọng vẫn không lý giải được sự đột biến trong suy nghĩ của mình dẫn đến quyết định làm đảo lộn toàn bộ cuộc đời đang xuôi chèo mát mái, cuộc đời khiến nhiều người phải thèm muốn và ghen tỵ. Cái gì đã xui khiến anh tìm đến tận nơi để trao cho cô món quà của vợ? Đến phút cuối cùng, anh đã có ý định để lại món quà này ở văn phòng Hội người Việt Nam và nhờ một người bạn gửi cho cô với một mẩu thư viết tay. Anh viết mẩu thư đó bằng chiếc bút chì màu đỏ, trên mặt quầy bar của nhà hàng Thăng Long sau khi ăn bữa trưa, viết xong lại bỏ đi để quyết định đến tận nhà tù thăm cô. Bức thư bị vò nát vẫn còn nằm trong túi áo anh. Anh bất lực trong việc lý giải các hành vi của mình và không hề cảm thấy mình có lỗi trong việc bỏ vợ và hai con ở quê nhà. “Mình không thể sống mãi trong sự giả dối được, con người ta có bất tử đâu mà cứ đeo mãi cái gông vô hình trên cổ suốt đời.” Anh thường tự trấn an bằng suy nghĩ như vậy mỗi khi nhớ về cuộc sống cũ ở quê nhà.
- Xin lỗi,... anh tên là gì ạ? - Tachiana hơi thẹn thùng, hỏi nhỏ.
- Tôi là Trọng, tôi từ Nha Trang sang đây công tác. Tôi đã ra sân bay tiễn cô trong dịp đoàn K. sang thăm Khánh Hòa. Chắc cô không nhớ tôi... À, mà chúng ta ngồi xuống đi chứ, sao cứ đứng hoài vậy?
Hai người ngồi xuống hai chiếc ghế đối diện nhau. Ánh mắt họ gặp nhau và cả hai đều cúi mặt xuống như hai cô cậu học sinh có cảm tình với nhau bỗng được thầy giáo xếp vào ngồi chung một bàn.
- Anh sang công tác có lâu không?
- Một tuần nữa tôi sẽ quay trở về Việt Nam.
- Sao chóng thế?
- Tôi sang đã hơn một tháng rồi, đi công tác xuống một số cơ sở chế biến cá ở biển Đen.
- Thời tiết ở bên ấy chắc nóng lắm phải không anh? Em không thể nào quên được bãi biển của Nha Trang! - cô nói giọng nuối tiếc nghẹn ngào.
Cả hai lại im lặng một lúc lâu. Song, hình như trong im lặng họ đều cảm thấy dễ chịu, thoải mái hơn. Ánh mắt họ nhìn nhau trở nên bạo dạn hơn. Ánh mắt của Trọng dừng lại lâu hơn trên đôi bàn tay của cô để trên bàn, đúng vào cái khoảng sáng hình vuông bị cắt nát bởi các trấn song sắt trên cửa sổ.
- Trong này chắc em không có điều kiện chơi đàn nữa phải không?
- Em không được mang đàn vào trong này - Tachiana hơi rụt tay lại - Lao động cả ngày mệt rồi, về đến phòng chỉ muốn lăn ra ngủ thôi.
Bất giác, Trọng nắm lấy hai bàn tay cô để trên bàn và kéo gần lại phía mình. Cánh tay cô lỏng ra, không hề có biểu hiện phản đối. Trọng cúi xuống hôn lên những ngón tay dài, mảnh mai và nứt nẻ vì bị ngâm nước và thiếu sinh tố, hôn lên những vết hằn đỏ rớm máu do chiếc còng thép gây nên. Thời gian như ngừng trôi. Không biết hai người ngồi im lặng như vậy bao lâu.
- Anh sẽ giúp em ra khỏi chốn này! Không thể để em chết mòn ở đây được! - Trọng nói và nhìn thẳng vào mắt Tachiana. Đôi mắt của cô nhìn anh không chớp. Cả hai người tự thầm hiểu rằng kể từ nay số phận của họ đã bị buộc chặt vào nhau như một định mệnh.
Tiếng giày đinh lại vọng vào, khô khốc và hăm dọa. Tiếng chốt cửa sắt nghe loảng xoảng trong khu hành lang rộng.
Tachiana bước ra với một vẻ tự tin. Từ giây phút này, cô không hề đơn độc. Một giọt nước mắt bỗng ứa ra nơi khóe mắt cô. Bên ngoài, gió xuân đã ào về làm khô đi những vũng nước tù hãm của băng tan trên các mái tôn xám xịt, trên sân và trước hiên nhà của dãy trại giam số 1.
Bước chân qua chiếc cổng sắt nặng trịch sơn đen của khu trại giam, Trọng đã trở thành một con người khác. Anh đã bị tiếng sét ái tình giáng trúng đầu ở vào thời điểm không thể ngờ tới. Song, mấy ai điều khiển được nhịp đập của con tim mình?
Ngồi vào trong xe rồi, anh Trọng mới sực nhớ ra là quên đưa cho cô món quà của vợ. “Như vậy có khi lại tốt hơn”, anh bỗng tự nhủ.
Nhưng Trọng không ngờ rằng chính món quà đó đã làm lộ ra toàn bộ sự thật nghiệt ngã trong gia đình anh vào chính cái hôm hai người tổ chức đám cưới.
34
Dã gần hai giờ sáng. Trọng không tài nào chợp mắt được. Chiếc gạt tàn thuốc lá đã đầy ắp. Anh mở cửa sổ bước ra ngoài ban-công. Toàn bộ thành phố K. trải rộng dưới tầm mắt. Bầu trời đêm rải rác các vì sao nhợt nhạt và một mảnh trăng khuyết vô vị lúc ẩn lúc hiện trong mây. Các tòa nhà cao tầng xung quanh tối om, lác đác một vài khung cửa sổ còn sáng ánh đèn. Men theo vỉa hè đối diện khách sạn, một người đàn ông say rượu ngất ngưởng, chân nam đá chân chiêu, vừa đi vừa hát ông ổng, thỉnh thoảng lại bò cả ra đường.
Trong đầu anh Trọng chỉ vật vã một câu hỏi duy nhất: “Làm cách nào cứu Tachiana ra khỏi tù, càng sớm càng tốt?” Vấn đề ở đây là thời gian, chỉ còn một tuần nữa là anh phải quay trở về. Anh rất hiểu tình thế của mình. Anh điểm mặt tất cả những người quen trong chuyến đi công tác này để bắt đầu đi quân cờ đầu tiên trong một ván cờ chưa biết đoạn kết ra sao. Đúng lúc gã say rượu đứng đái tồ tồ vào chân chiếc biển quảng cáo bằng đèn mầu ngay sát vỉa hè. Anh bật phì cười vì từ trên ban công nhìn xuống, gã say như đang đái vào chân cô gái ăn mặc hở hang quảng cáo cho một hãng mỹ phẩm nổi tiếng của Pháp. Gã vừa đái vừa ngước mắt nhìn cô gái và lẩm bẩm nói gì đó. Có thể trong khi say, người trong ảnh và người ngoài đời cũng không có gì khác nhau chăng?
Trọng mặc áo khoác vào và đi xuống quán bar dưới tầng một để mua mấy chai bia. Thang máy vừa chạy được một đoạn thì dừng lại. Cửa mở và hai cô gái sực nức nước hoa, bước vào. Qua ánh mắt, cách ăn mặc và mùi nước hoa đặc trưng anh biết đây là gái làm tiền. Hai cô nhìn anh cười lúng liếng. Một cô tóc bạch kim, môi tô màu tím, trông khá xinh, bạo dạn lên tiếng:
- Giờ này ông vẫn còn thức à? Chắc khó ngủ phải không?
- Tôi chưa quen nên không ngủ được.
- Ông có muốn chúng em lên giải sầu không? - cô gái thứ hai nãy giờ đứng soi mình vào chiếc gương trong thang máy, sửa đi sửa lại mớ tóc trước trán, lên tiếng và phá ra cười ròn tan. Tiếng cười đầy sắc thái dục tính.
Sự bạo dạn trong cách biểu lộ tình dục và cái không gian chật hẹp của cabin thang máy chỉ có ba người khiến Trọng không cưỡng lại được sức cám dỗ mãnh liệt của hai cơ thể trẻ trung, khêu gợi.
- Ông trông chúng em có xinh không? - cô tóc bạch kim lại hỏi - Ông đã làm tình với gái Xlavơ bao giờ chưa?
- Tất nhiên là xinh rồi. - Trọng cười và cảm thấy bộ ngực to mềm và nóng rực của cô tỳ vào cánh tay.
Chiếc thang máy dừng lại. Ba người bước ra một khoảng hành lang rộng đèn sáng trưng.
- Ông ở buồng số bao nhiêu? - cô tóc bạch kim hỏi.
Trọng chần chừ một lát.
- Chúng em sẽ làm ông nhớ mãi mảnh đất này. Ông là người Nhật, người Trung Quốc hay Triều Tiên? - cô gái kia nói đế theo. - Đừng từ chối niềm vui sướng của ngày hôm nay, ngày mai chưa phải là của chúng ta! - Đôi môi đắm dục của cô cong lên đầy nhục cảm.
- Phòng 777, tầng 7.
- Mười lăm phút nữa chúng em sẽ tới. Ông có thể chọn một trong hai, tùy ông.
- Hai cô đều xinh cả, tôi chẳng biết chọn ai.
- Chúng em lên ngay đây.
Thoạt tiên, hai cô yêu cầu được vào tắm trong bồn. Trọng ngồi trên đi-văng ở phòng khách và rót bia ra các cốc. Anh im lặng hút thuốc, mắt nhìn lên bức tranh “Người đàn bà xa lạ” của Cramxkoi treo trên tường đối diện. Khuôn mặt quí phái, bí ẩn với đôi mắt to u buồn không gợi lên chút ham muốn thể xác. Nhưng không hiểu sao, nó nhợt nhạt và đơn điệu. “Người phụ nữ đức hạnh hình như bao giờ cũng tẻ nhạt,” Trọng nghĩ bụng. Sự lôi cuốn đầy cám dỗ mang tính bản năng của hai cô gái đang tắm trong kia khiến người anh rạo rực. Anh lắng nghe tiếng nước xối trên thân thể, tiếng nô đùa cười nói, một cô lại còn cất giọng hát bài gì đó về một chàng lính thủy với chiếc tẩu thuốc trên môi. Hơi nước nóng thoát ra qua khe cửa hé mở. Bỗng, cô tóc bạch kim thò đầu ra, gọi:
- Ông có muốn vào tắm chung với chúng em không?
- Chúng em kỳ cọ sạch sẽ cho ông, cả đến tận móng chân - giọng cô kia từ phía trong vọng ra. - Vợ ông ở nhà chắc cũng chẳng tắm cho ông bao giờ.
Trọng lưỡng lự, dụi điếu thuốc mới châm vào gạt tàn. Hơi nước từ trong nhà tắm xông ra tràn vào phòng khách. Mùi nước hoa, mùi thân thể phụ nữ hơi ngầy ngậy, nói tóm lại sự sa đọa có một ma lực khó cưỡng lại khiến tim anh đập mạnh. Cô tóc bạch kim mở rộng cánh cửa và bước ra ngoài. Toàn thân cô bốc khói. Trọng nhìn vào tấm gương lớn treo phía bên trong phòng tắm, tuy bị hơi nước làm mờ đi, song cũng phản chiếu đầy đủ toàn bộ cơ thể của cô gái tóc đen. Cô kẹp chiếc vòi hoa sen ở giữa hai đùi để cho các tia nước phun ngược lên trên bộ ngực đồ sộ của mình. Nhìn thấy Trọng trong gương, cô làm mắt lác và đưa tay lên mũi vẫy vẫy trêu...
Một tiếng sau, Trọng nằm ngả người trên ghế hút thuốc, mắt lơ đãng nhìn hai cô gái điếm đang mặc lại quần áo và trang điểm phấn son trước tấm gương gắn sau cánh cửa lớn. Toàn thân trống rỗng và cảm giác buồn ngủ xâm chiếm khiến anh ngáp vặt liên tục. Cô tóc bạch kim nhón tờ giấy bạc ở trên bàn và đút vào ngực áo lót. Cảm nhận được ánh mắt của Trọng đang nhìn theo từng cử chỉ của mình, cô khẽ nói:
- Bọn em là những người thật thà nhất trong giới phụ nữ đấy, thế ông tưởng các bà các cô cao sang quyền quí không sử dụng tình dục vào chuyện kiếm tiền hay sao? Ai thì cũng phải bán một cái gì đó của mình đi để kiếm sống chứ!
Trước khi bước ra khỏi phòng, cô còn quay lại xin thêm thanh kẹo sô-cô-la để trên bàn:
- Mỗi lần đi làm về, đứa con gái năm tuổi của em chỉ đòi mẹ mua kẹo thôi.
Nghe cô gái điếm nói như vậy, Trọng bỗng nghĩ đến vợ con ở nhà.
35
An sáng xong, Trọng quay trở về phòng vào lúc gần tám giờ. Khi anh mở cửa bước vào thì chiếc đồng hồ trên tường điểm chuông. Tiếng chuông của nó làm anh nhớ đến lời mời của ông giáo sư Hiếu đến thăm ngôi chùa Việt Nam ở gần ngoại ô thành phố K. Ông Hiếu gọi điện cho anh từ tuần trước, bận quá anh cũng quên bẵng đi. Anh định nhấc máy gọi điện lại cho ông, nhưng nghĩ còn sớm nên lại thôi. Anh ngồi xuống bàn và lấy bút ghi ra lề của tờ báo quảng cáo những thứ cần mua đem vào cho Thảo. Nghĩ đến cô, anh cảm thấy trong lòng như có sóng dậy. Anh xé tờ báo và gập lại cho vào trong túi áo khoác. Nắng sớm chia đôi căn phòng, đường ranh giới đi ngang qua làn môi của “Người đàn bà xa lạ” trên tường khiến thoạt trông như thể cô ta đeo một tấm voan mỏng trên mặt. Anh ra ngoài ban-công đứng ngắm cảnh thành phố buổi sáng. Từ trên tầng cao cũng có thể nhìn thấy mái chùa Việt Nam ở mãi tít xa xa. Những đường nét cong cong xen kẽ với những nét thẳng nghiêm khắc của các ngôi nhà cao tầng xung quanh tạo ra một phối cảnh hay mắt trên cái nền trời xanh trong veo, nhẹ nhõm của một buổi sáng xuân.
Đột nhiên, trong phòng vọng ra tiếng chuông điện thoại.
Trọng hấp tấp chạy vào cầm ống nghe:
- Tưởng ai, tôi định gọi điện cho bác đây. Công việc thế nào?
- Nghe nói anh sắp về phải không?
- Khoảng một tuần nữa.
- Định gửi anh chút quà, không biết có tiện không?
- Có gì đâu, tôi đi người không ấy mà.
- Đúng là các Vip có khác, thôi qua chỗ mình xoa bóp bấm huyệt thư giãn rồi đi vãn cảnh chùa dưới trời Tây đi, thú ra phết.
- Đồng ý thôi. Tôi đến ngay đây.
Cô ý tá trực ban đặt ống nghe xuống và cho Trọng biết giáo sư Hiếu đang bận châm cứu cho một bệnh nhân. Anh nói là cũng chẳng có việc gì gấp, có thể ngồi chờ được.
- Ngài có thể đọc báo, dùng trà? - cô y tá đứng dậy khỏi chỗ ngồi.
Anh tìm một cuốn tạp chí của người Việt xuất bản tại đây và lật giở xem. Với những cái tít khá giật gân cho thấy cộng đồng người Việt tại K. cũng là một xã hội Việt Nam thu nhỏ: cũng trộm cắp, đĩ điếm, hiếp dâm, nghiện hút, ngoại tình... và cả những trang thơ viết na ná giống nhau về nỗi nhớ quê nhà, nhớ cây na cây bưởi, cái giếng, cây cầu khỉ bắc qua con mương, buổi chiều hoàng hôn sau lũy tre làng, cánh diều hoặc con cò lả lướt trên đồng quê...
Trọng ngồi chờ khoảng nửa tiếng thì giáo sư Hiếu bước ra. Ông xin lỗi anh vì phải bận việc không ra ngay được. Giáo sư quay người lại bắt tay một ông bệnh nhân người địa phương cao lớn, lưng hơi gù gù.
- Cảm ơn giáo sư, tôi cảm thấy đỡ hẳn sau một ca điều trị. Chắc là tôi lại có thể nhảy lên yên ngựa phi trên thảo nguyên được rồi.
- Trong thời gian điều trị cũng cần phải giữ gìn, tránh vận động mạnh.
- Thế có được nhảy lên con ngựa cái ở nhà không? - người đàn ông hỏi lại và phá ra cười vẻ rất lấy làm đắc ý vì câu nói đùa đầy ngụ ý của mình. Ánh mắt ông liếc nhìn về phía cô ý tá xinh đẹp khiến cô phải cúi mặt xuống.
Khi cái lưng như bao gạo trăm cân của ông khuất sau cánh cửa, giáo sư Hiếu quay sang nói với Trọng bằng một giọng không giấu được vẻ tự hào:
- Tay này là Viện trưởng Viện Kiểm sát tỉnh, trong một buổi đi săn bị đau lưng cấp không tụt xuống được lưng ngựa. Người ta chở đến đây, người cứ cong như con tôm, tất nhiên là tôm hùm rồi, đau vã mồ hôi. Thế mà chỉ sau mười phút châm cứu, bấm huyệt, lưng lại thẳng thớm như cũ, hết đau. Ông ta cứ chắp hai tay vào vái tôi như tế sao. Thật là lần đầu tiên trong đời có một ông Tây mắt xanh mũi lõ vái sống mình.
Trọng vừa làm mát-xa vừa nói chuyện với ông Hiếu trong một căn phòng bài trí theo phong cách phương Đông. Bàn ghế toàn bằng mây quét sơn bóng loáng. Bốn mặt tường treo rất nhiều tranh khảm xà cừ và tranh phong cảnh vịnh Hạ Long. Trong bốn góc tường dựng bốn chiếc bình lớn với họa tiết như lấy từ trong tích của Truyện Kiều. Trong trạng thái thiu thiu ngủ, anh bỗng choàng tỉnh vì một suy nghĩ liên tưởng vụt đến trong đầu: thân phận nàng Kiều và Thảo có gì đấy giống nhau. Họ đều là những người phụ nữ có tài, có sắc. Rồi họ cũng lại là nạn nhân của chính cái sắc cái tài đó. Hơn hai trăm năm đã trôi qua, trên một mảnh đất cách xa hàng vạn dăm, trong thời đại của máy tính và kỹ thuật số, thời đại của những giá trị dân chủ, tự do vang khắp địa cầu, song xem ra bản chất xấu xa của con người vẫn chưa tiến hóa được bao xa so với các cụ tổ của mình.
“Thế còn mình đóng vai gì đây? Một Từ Hải ‘dọc ngang nào biết trên đầu có ai’ hay là một chàng Thúc Sinh si tình nhút nhát?” Trọng tự hỏi mình.
- Bác có nghe tiếng một nữ nghệ sĩ vĩ cầm gốc Việt ở đây không?
- Không, vả lại thực sự tôi cũng không am hiểu âm nhạc lắm, có chăng nhạc thời kháng chiến còn nghe được. Chỉ lục phủ ngũ tạng của con người thì tôi rành. Anh quen cô ấy sao?
- Cô ấy đang gặp nạn.
- Tai nạn gì vậy? đâm ô tô à?
- À không, cô ấy đang bị ngồi tù.
- Thế à, tội gì?
- Lý do chính trị.
- Ấy chết, nếu thế thì cũng nên tránh xa. Chính trị là dơ bẩn. Tôi không quan tâm tới chính trị, tôi chỉ quan tâm tới... ruột thừa thôi. Vả lại, mình ở trên đất khách quê người, dây làm gì cho bận thân ra. Không khéo lại còn rách việc.
Trọng cảm thấy hơi thất vọng và bực mình vì thái độ phản ứng của ông Hiếu. Nhưng nhìn cái trán hói nhẵn bóng, hai vành tai to vểnh ra dấu hiệu của sự trường thọ, anh lại cảm thấy thương hại cho con người này. Con người của cả một thế hệ phải sống trong một nỗi sợ treo lơ lửng trên đầu, luôn luôn phải né tránh đề phòng kể từ lời ăn tiếng nói để giữ thân được yên ổn.
- Anh không quan tâm tới chính trị, nhưng chính trị nó quan tâm tới anh.
- Chính trị nó cần tôi thì có. Ở nhà, các ông tai to mặt lớn cũng muốn được tôi chữa bệnh, sang bên này cũng thế, đấy cậu thấy đấy, Viện trưởng Viện Kiểm sát, cũng vào loại thét ra lửa, thế mà còn phải bái phục tôi.
Tự nhiên câu nói của ông Hiếu khiến Trọng ngồi bật dậy trên giường, những hòn sỏi hơ nóng đặt lên các huyệt đạo trên lưng anh rơi lộc cộc xuống nền nhà. Một viên sỏi màu gan gà lăn lông lốc tới sát chân ông Hiếu. Cô kỹ thuật viên mát-xa đang rửa tay ở góc phòng vội hốt hoảng chạy lại:
- Ông khó ở sao?
- À không, tôi vẫn bình thường - vừa nói Trọng vừa chạy tới và ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh ông Hiếu. Anh hạ thấp giọng xuống, một chân co hẳn lên trên ghế:
- Chỉ có bác mới giúp em được việc này thôi.
- Tại sao lại là tôi?
Đôi mắt hơi mở to của ông Hiếu lộ vẻ ngạc nhiên sau tròng kính trắng.
- Không là bác thì còn ai vào đây nữa!
Cả ông Hiếu và Trọng đột nhiên im lặng và quay cả ra nhìn khoảng lưng trần trắng nõn của cô kỹ thuật viên lộ ra sau vạt áo blu trắng khi cúi xuống lượm các hòn sỏi nằm rải rác trên sàn nhà.
36
Dứng tựa lưng vào thân cây bạch dương đang ứa ra những dòng nhựa mùa xuân mà nghe tiếng chuông chùa Việt Nam, những âm thanh lảng bảng, mênh mang hư hư thực thực, chắc cũng ít ai có được cái diễm phúc như vậy. Bầu trời bên này cảm giác cao hơn trời ở nhà. Đó là suy nghĩ của Trọng và anh thổ lộ ý nghĩ đó với ông Hiếu khi hai người đi dạo bên ngoài khuôn viên rộng lớn của khu chùa nằm cuối đại lộ Kutuzov.
- Sự giao thoa về tâm linh giữa Đông và Tây sẽ làm cho nhân loại giàu có lên về tư tưởng và cảm xúc - ông Hiếu chậm rãi nói, chỉ tay về phía những ngươi dân địa phương đang chậm rãi đi bộ thưởng ngoạn khung cảnh huyền bí của khu chùa với các bức tượng Phật uy nghiêm, mái ngói đỏ cong vút và mùi trầm hương đặc trưng vương vất trong không gian.
- Người châu Âu không tin có cuộc sống sau cái chết, không tin vào “kiếp trước kiếp sau” nên họ không có bàn thờ tổ tiên. Có lẽ vì thế mà họ biết cách hưởng thụ cuộc sống trần gian một cách tối đa nhất chăng? - Trọng vít một cành bạch dương xuống, rồi buông tay để nó nảy bật lên rung rinh trong làn gió mát thổi từ phía cánh rừng thông già chạy bát ngát đến tận đường chân trời.
- Tiếp xúc với văn hóa và con người phương Đông khiến họ sẽ phải suy nghĩ lại. À, còn việc của cậu, như lúc nãy ngồi trên xe tôi đã nói rồi, tôi sẽ tạo điều kiện để hai người gặp gỡ nói chuyện. Việc của tôi đến đây là xong. Cậu thỏa thuận như thế nào, các bước tiến hành ra sao? Chắc tôi không cần phải nói thêm.
- Thế là bác đã giúp em rất nhiều rồi. Thôi, em với bác vào thắp nén nhang trong chùa mong các cụ phù hộ độ trì cho việc này được thông đồng bén giọt.
Ngay chiều hôm đó, Trọng đến nhà riêng gặp ông Rudenko Nikolaievich trên phố Sumska, đối diện với công viên mang tên nhà thơ vĩ đại Taras Shevchenko. Theo như giờ đã hẹn, anh đến và lên gác hai của khu nhà năm tầng. Khu nhà xây từ thời Stalin nên rất chắc chắn, trần nhà cao. Anh bấm chuông đến lần thứ ba thì phía bên kia cửa mới có tiếng dép nhẹ nhàng, hơi rón rén. Mở cửa là một bà già nhỏ bé, tóc trắng như cước, nhưng đôi mắt vẫn còn rất lanh lợi. Trọng đoán đó là mẹ của ông Rudenko vì họ có cái mũi rất giống nhau.
- Chào bác.
- Mời ông vào - bà đẩy cánh cửa rộng ra và đứng nép vào một bên.
Trọng bước vào và cởi giày, treo áo khoác vào chiếc tủ lớn gắn trong tường bên trái.
- Mời ông vào phòng khách ngồi đợi một lát - bà già chỉ nói thế rồi lại đi ra ngoài và mở cánh cửa thông sang nhà bếp. Qua cánh cửa để ngỏ, Trọng thấy trong bếp còn có hai đứa trẻ đang ngồi ăn sau chiếc bàn tròn rộng.
Cách bài trí của phòng khách giống như một phòng trưng bày các loại da và chim thú nhồi, chứng tỏ chủ nhân là một thợ săn có đẳng cấp. Trên tường treo la liệt các loại súng săn từ cổ chí kim. Trên bức tường ngay sau lưng anh ngồi, những bức ảnh khổ lớn đóng trong những khung gỗ nạm bạc treo thành hàng. Đó là các bức hình chụp ông Rudenko trong các buổi đi săn, cái thì ông nằm bên cạnh một chú lợn rừng đã bị hạ, cái thì đang giơ một con chim ó cực lớn cánh rũ xuống... Trọng đang mải ngắm nghía từng bức ảnh thì chợt nghe có tiếng nói chuyện lao xao ở phòng bên cạnh. Thoạt tiên là tiếng phụ nữ, hình như đang khóc hay giận gì đó, tiếp sau là một giọng đàn ông và anh nhận ra đó là giọng ông Rudenko. Lắng tai nghe một lát, ngoài tiếng cáu gắt đôi co, còn có tiếng cốc chén bị xô đẩy trên bàn. Bà già lúc nãy mở cửa thò đầu vào trông vẻ mặt đầy hốt hoảng, rồi lại đóng sập cửa lại. Trọng hiểu rằng trong nhà đang có chuyện chẳng lành. “Tiến thoái thật lưỡng nan”, anh tự nhủ thầm trong bụng. Thật là chẳng may mắn chút nào, mâu thuẫn gia đình lại xảy ra vào đúng lúc này thì ai còn hứng đâu mà đi giúp người khác cơ chứ !?. Trọng đứng ngồi không yên. Anh đi đi lại lại trong phòng tìm cách thoái lui và nghĩ nên hẹn vào dịp khác, ngày mai chẳng hạn. Anh vừa định đẩy cánh cửa mà bà già vừa ló đầu vào thì sau lưng anh, cửa phòng bật mở. Một người đàn bà cao lớn, tóc nhuộm màu hung đỏ, khuôn mặt cũng ửng đỏ, đẩy cửa bước ra. Mắt bà đỏ hoe, bộ áo thể thao trên người xộc xệch.
- Tôi không thể chịu đựng được hơn nữa! - bà nói khi đi đến giữa phòng. Bà gật đầu chào anh nhưng không nhìn thấy anh. Trọng vội đứng lùi lại vì bước chân của bà xăm xăm đi về phía cánh cửa mà anh đang đứng bên cạnh. Khi bà đóng mạnh cửa lại rồi, Trọng vẫn còn đứng trơ ra vì bất ngờ. Đúng chẳng khác gì một đám cháy vụt ngang qua phòng khách. Một lúc sau, nguyên nhân của đám cháy mới xuất hiện trên ngưỡng cửa.
- Các bà vợ trên khắp thế giới đều giống nhau! - vừa nhìn thấy khuôn mặt ông Rudenko, Trọng bật ra câu nói đó thay cho một lời chào xã giao chắc không cần thiết trong một tình huống bất ngờ như thế này. Thật là một câu nói “thiên tài” - sau này khi nhớ lại anh vẫn thầm cảm ơn Trời Phật đã xui khiến để anh phát ngôn ra được một câu nói đúng lúc đúng chỗ đến như vậy. Chính câu nói này đã trả lại một nụ cười rộng mở trên khuôn mặt cũng không kém phần đỏ gay của ông Viện trưởng Viện Kiểm sát.
- Tôi tưởng phụ nữ phương Đông kín đáo và hiền thục hơn chứ?
- Có lẽ nên chia động từ ở thời quá khứ thôi, còn hiện tại và tương lai thì cũng khó tìm ra.
- Bà ấy phát hiện ra một vết son môi trên cổ áo sơ-mi của tôi khi đem đi giặt - ông Rudenko ngồi phịch xuống chiếc đi-văng gần đó. - Giải thích thế nào bà ấy cũng không chịu nghe. Bà ấy dọa đem con về nhà mẹ đẻ. Thật không đúng lúc chút nào! Anh chờ có lâu không? Tôi thật sự mong anh bỏ quá cho.
- Tôi mới là người phải xin lỗi vì làm phiền anh vào giờ nghỉ hiếm hoi.
- Có gì đâu, tôi nghe anh đây, à tốt nhất là chúng ta vào phòng làm việc của tôi ngồi cho tiện, có thể hút thuốc trong đó.
Ông viện trưởng khoác vai Trọng dẫn vào hành lang mờ mờ tối thông sang phòng bên.
Có tiếng trẻ con khóc và tiếng quát nạt của người mẹ.
37
Trọng vào trại giam lần này với một tâm trạng phấn khởi cho dù thời tiết có mưa phùn lép nhép và bầu trời u ám, nặng và thấp. Chiếc túi xách căng phồng đồ ăn, đồ dùng lặt vặt và mấy cuốn họa báo phụ nữ... nặng trĩu trên tay. Người lính gác cổng xem cuốn hộ chiếu công vụ và úp bàn tay xuống để che đi đồng 50 đôla kẹp ở giữa, rồi kéo về phía mình, đồng thời ánh mắt đảo khắp một lượt đề phòng ai đó nhìn thấy, bấm nút điện mở cổng cho Trọng bước vào. Anh ngồi ở phòng chờ đã nửa tiếng mà vẫn chưa thấy Thảo ra. Hai người phụ nữ, một già một trẻ, cùng vào với anh đã được gọi sang phòng bên gặp mặt. Anh đi đi lại lại, thỉnh thoảng lại liếc nhìn đồng hồ, trong bụng thấy sốt ruột không yên. Lúc anh châm lửa định hút điếu thuốc thứ hai ở trong góc phòng thì cánh cửa bật mở. Anh quay đầu lại và bắt gặp ngay ánh mắt lạnh lùng của người nữ quản giáo lần trước. Chị ta dừng lại ngay ngưỡng cửa và ra hiệu để anh bước vào. Trọng lưỡng lự một lúc vì chưa biết vất điếu thuốc còn đang cháy dở đi đâu. Cuối cùng, anh dụi điếu thuốc vào cánh cửa sắt và đút vào túi quần. Đi được mấy bước anh chợt nhớ ra mình quên cái túi đồ ăn ở ngoài ghế bèn chạy trở lại. Bà quản giáo đợi anh ở phía cuối hành lang, vẻ sốt ruột, nhưng rồi lại nở nụ cười toe toét ngay khi Trọng bước tới gần và dúi vào tay bà ta tờ giấy bạc năm chục grivna.
Hai người đi qua một cái sân rộng. Mấy người nữ tù nhân đang lúi húi quét dọn ở góc sân dừng cả lại nhìn theo, tò mò.
- Tachiana đang nằm tại bệnh xá của trại - không quay mặt lại, bà quản giáo nói.
- Có chuyện gì xảy ra vậy? - Trọng sững người, hỏi.
- Không có gì nghiêm trọng, bệnh phụ nữ ấy mà!
- Tôi có thể vào đấy được không?
- Thì chúng ta đang đi đến đấy chứ còn đi đâu nữa!
Hai người dừng lại trước cửa phòng. Trọng đưa mắt nhìn tấm biển đã cũ ghi dòng chữ: “Phòng khám phụ khoa”. “Điều kiện ăn ở như thế này, không ốm mới là lạ” - anh nghĩ bụng. Một cô ý tá bước ra và khoác lên vai anh một chiếc áo blu trắng. Anh bước vào và nhận ngay ra Thảo đang nằm trên chiếc giường sát cửa sổ, mặt quay vào tường, người trông gầy sọp hẳn đi. Thân hình gầy ốm của cô hằn lên dưới tấm chăn mỏng và khuôn mặt trông nghiêng nghiêng có gì đó tội nghiệp khiến tim anh đập dội lên trong lồng ngực vì một tình cảm khó tả. Anh rón rén bước tới gần bên giường định cất tiếng chào nhưng vội dừng ngay lại vì cô đang ngủ. Anh cúi xuống nhìn kỹ vào khuôn mặt cô và cảm thấy nét trẻ thơ phảng phất đâu đó ở đường cong sống mũi, hay ở khóe miệng. Hơi thở của cô nhè nhẹ làm lay động mấy sợi tóc màu nâu thẫm. Trọng nhận ra trên mái tóc cô có xen lẫn cả những sợi tóc trắng. Anh kéo chăn lên đắp kín bên vai gầy để trần của cô và cảm thấy sống mũi cay cay.
Bỗng anh cảm thấy một bàn tay của ai đó đặt lên vai mình.
Một nữ bệnh nhân cùng phòng bước đến sau anh từ lúc nào không hay.
- Cô ấy bị mất máu nhiều, thật tội nghiệp! May mà người ta tìm thấy và kịp cấp cứu.
- Tai nạn gì vậy?
Người nữ bệnh nhân đưa một ngón tay lên miệng ra hiệu im lặng và kéo tay anh lại góc phòng.
- Anh là gì đối với cô ấy?
- Tôi.. tôi là... một người đồng hương.
Người phụ nữ im lặng một lát, rồi ghé sát vào tai Trọng thì thầm, hơi thở rất hôi:
- Cô ấy bị hãm hiếp khi đi lấy củi trong rừng, có thai và tự phá thai. Băng huyết. Cô ấy ngốc quá, có thai là được giảm án, được chuyển sang khu đặc cách, điều kiện tốt hơn.
Trọng cảm thấy người chao đảo, túi quà tuột khỏi tay rơi xuống sàn nhà.
Tiếng động mạnh khiến Thảo cựa mình tỉnh giấc. Cách đó hai giường, một bệnh nhân bật lên cơn ho rũ rượi.
38
Ngày đầu tiên của tự do, Thảo chỉ dành cho việc ngủ. Cô ngủ li bì đến tận trưa hôm sau, thức dậy ăn uống qua loa rồi lại lăn ra giường ngủ tiếp. Cô có cảm giác rằng gần một năm qua cô chưa có được một giấc ngủ trọn vẹn, một giấc ngủ mà thức dậy không phải vì tiếng chuông báo giờ lao động giật thót người, không phải vì tiếng kêu ú ớ của ai đó trong cơn mê sảng ở giường bên cạnh hay ở giường tầng trên, không phải vì ngứa do lũ rệp dưới lớp đệm cỏ khô lưu niên cắn mẩn hết cả người. Cô mở mắt ra một lúc lâu mà vẫn chưa tin rằng mình đang nằm trên chiếc giường quen thuộc trong căn phòng ngủ của mình. Ánh nắng buổi chiều rọi thẳng vào cửa kính phản chiếu lên trần nhà những hình hoa văn trông vui mắt. Cô ngạc nhiên vì những ý nghĩ hận thù nung nấu trong đầu bao lâu nay bỗng nhiên biến mất. Tâm hồn cô trở nên nhẹ nhõm, thanh thản. Hình như giấc ngủ bù vừa qua đã làm cho cả hệ thần kinh trong cơ thể cô được hồi sinh. Bất giác, cô nhỏm người ngồi dậy và cất giọng hát, một bài hát mà cô sáng tác trong tù. Cô đi chân chần trên sàn nhà và vừa hát vừa bước đến bên cây đàn violon treo trên tường đã lâu không có ai động đến bị phủ một lớp bụi trắng mờ. Những âm thanh đầu tiên vang lên dưới bàn tay cô khiến nước mắt dâng trên bờ mi. Cô lại cảm thấy mình hạnh phúc. Cô lên lại dây. Bàn tay run run, lóng ngóng. Cái cảm giác mát lạnh thân thuộc của vỏ đàn chạm vào má khiến cô ngây ngất. Cây vĩ mã trong tay như một thanh kiếm tuốt trần. Cô nhắm mắt lại và chơi toàn bộ bản nhạc đã sáng tác trong thời gian thân thể bị giam cầm trong những bức tường xám, song, tâm hồn cô không chịu khuất phục. Nó vẫn tự do và sáng tạo không ngừng. Nếu như ai đó có không hiểu gì về âm nhạc, nhưng chỉ cần quan sát kỹ cây vĩ mã trong tay nữ nghệ sĩ cũng có thể biết được nội dung của bản nhạc. Nó vẽ lên không trung những đường biểu đồ của một số phận con người. Một khát vọng được sống và hưởng hạnh phúc tạo hóa ban cho. Đường biểu đồ đó dao động quá mạnh giữa các thái cực, lúc lên cao, lúc xuống thấp, những đoạn êm đềm yên ả mới hiếm hoi làm sao.
Khi cây vĩ mã ngừng lại. Thảo mở mắt ra và cảm thấy xung quanh yên tĩnh quá. Một sự yên tĩnh khi cơn bão đã qua. Cây cối đổ nát, nhà cửa tiêu điều. Một tổ chim mắc trên mái nhà. Từ trong đó vọng ra tiếng liếp chiếp của bầy chim non. Những chiếc mỏ tí hon vươn ra đớp không khí và ánh mặt trời. Sự sống vẫn tiếp tục sinh sôi. Thảo giật mình vì có tiếng gõ vào kính cửa sổ. Ánh mắt cô nhận ra ngay đôi chim câu của nhà hàng xóm đang gù nhau. Hai cái đầu nhỏ xíu nghiêng ngó nhìn vào trong phòng.Thảo bước lại gần và mở rộng cánh cửa sổ ra. Đôi chim vẫn không quên việc cô cho chúng ăn ngay trong lòng bàn tay hồi nào. Đến bây giờ cô mới nhận ra là các cửa sổ của ngôi nhà đối diện đều mở toang. Trong khung cửa lộ ra những khuôn mặt của các ông các bà về hưu ở nhà. Họ giơ tay lên vẫy chào cô. Tiếng đàn quen thuộc của cô đã trở về ngõ phố nhỏ yên tĩnh và đẹp đẽ này. Trước đây, tiếng đàn đã là một cái gì đó thân quen, như những cây dương, cây phong trồng dọc bên đường vậy. Cô nhìn họ bằng một ánh mắt biết ơn và tự thầm nhủ trong lòng rằng nghệ thuật của cô sẽ chỉ phục vụ những con người giản dị và chân thật kia.
Nhưng, một thử thách mới nữa đang chờ phía trước mà cô đâu có hay.
Thảo quay vào phòng tắm. Cô mở vòi hoa sen hết cỡ để nước xối xả lên cơ thể mình, như thể bằng cách đó có thể gột rửa được phần nào nhơ bẩn của những tháng ngày đen tối trong cuộc đời mình. Tiếng nước xối làm át đi tiếng chuông điện thoại ở phòng ngoài, nên có lẽ đây là hồi chuông thứ hai. Thảo chạy vội ra cầm ống nghe. Những giọt nước và bọt xà phòng chảy từ trên tóc, trên lưng và đùi xuống làm ướt cả tấm thảm. Giọng nói của Trọng vang lên ở đầu dây bên kia:
- Sao, chỉ ngủ suốt ngày à? Anh gọi mấy lần không thấy ai nhấc máy, tưởng em không có nhà.
- Em đang tắm.
- Tắm xong chưa?
- Chưa.
- Anh làm phiền em quá.
- Không sao, anh cứ nói đi.
- Em không đang sát xà phòng đầy người đấy chứ?
- Sao anh biết?
- Anh ngửi thấy mùi thơm qua ống nghe!?
- Thế thì anh khác người đấy. Anh thử đoán xem thơm mùi gì?
- Mùi thân thể em là anh thấy thơm nhất... Nhưng mấy hôm nữa anh lên đường về Việt Nam rồi.
- Thật sao? - giọng Thảo trở nên thảng thốt. - Thế chiều nay anh có bận gì không? Em mời anh đến nhà chơi.
- Nhưng anh không biết đấu súng.
- Đấu với ai?
- Anh làm sao biết được...
- Thế mấy giờ chiều anh tới?
- Khoảng bảy giờ.
39
Thảo lục tung cả tủ quần áo lên, thử hết cái này đến cái khác nhưng đều không cảm thấy vừa ý. Cái cô cho quá sặc sỡ, cái lại quá ảm đạm. Cô gầy đi nhiều, cổ tay cũng như vòng ngực vòng eo bé hẳn lại. Nhiều chiếc áo trước kia cô mặc chật bây giờ lại trở nên rộng thùng thình. Gần một tiếng đồng hồ đã trôi qua mà cô vẫn chưa chọn được chiếc áo ưa thích. Những năm tháng sống dưới đáy tột cùng của xã hội hình như cũng làm thay đổi thị hiếu thẩm mỹ của cô. Sự rườm rà, kiểu cách khiến cô thấy chối. Trong thâm tâm, cô tự nhủ rằng tất cả những sáng tác về sau này sẽ hướng tới sự giản dị, tự nhiên. Ở một chừng mực nào đó, thời gian trong tù đã rèn cho cô một bản lĩnh nghệ thuật mà một cuộc sống đầy đủ may mắn và thành đạt không làm nổi. Cô cứ suy nghĩ mãi không biết yếu tố gì đã thanh lọc và rèn luyện bản lĩnh nghệ thuật của mình: sự tù hãm của cơ thể dồn nén quá trình thăng hoa của tâm hồn hay là cuộc sống nhơ nhuốc, cùng cực sau các bức tường xám hoà trộn với ý chí muốn trả thù đã chuyển hóa thành năng lực sáng tạo? Có lẽ, đúng hơn cả là cảm giác cô đơn, một cảm giác khiến tâm hồn con người trở nên nhạy cảm nhất, bắt được tất cả các bước sóng của thiên nhiên và vũ trụ xung quanh. Nhưng cũng có thể là một sự tổng hòa của tất cả các yếu tố trên chăng? Nhưng muốn gì thì muốn, cô vẫn cảm thấy mình còn may mắn sống sót trở về. “Còn sống tức là còn sáng tạo”- cô lẩm nhẩm câu đó thành lời. Trong lòng cô như có một ngọn lửa nhảy nhót. Cô bật cười vì thấy một con ong đất bay lạc vào trong phòng cứ chúi mũi vào tấm kính kêu ri ri. Liệu con người có bị lầm tưởng như thế không? Hay chính cô đã một thời gian dài cũng chúi mũi vào tấm kính của vinh quang và tiền bạc như vậy? Tâm hồn cô không cất cánh được cũng chính bởi tấm kính trong suốt vô hình đó. Cô mơ hồ cảm thấy rằng, từ ngày hôm nay, cô đã tìm ra lối thoát cho chính bản thân mình và cho nghệ thuật của mình.
Một sự vô tình, cô với tay lấy chiếc áo váy mặc hôm nhận bằng tốt nghiệp xuống. Chiếc áo nằm ở sát trong cùng. Cô ướm lên người và thấy rất vừa ý. Đứng một lúc lâu trước gương, cô cảm thấy như được bay ngược dòng thời gian trở về với những năm tháng sinh viên. Chiếc áo cũ như có phép lạ đã làm cho tâm hồn cô thư thái. Cô đi đi lại lại trong phòng và liếc nhìn đồng hồ trên tường. Đã lâu lắm rồi, cô mới lại có cái cảm giác hồi hộp khó tả trước một cuộc hẹn hò. Cái cảm giác khiến con người ta thấy đáng sống và muốn làm một việc gì đó to tát ở đời. Cô không điều khiển nổi nhịp tim của mình. Cô chạy tới bên cửa sổ và nhìn xuống con đường quen thuộc có hai hàng cây dương mọc thẳng tắp, lung linh trong nắng và gió.
Chợt cô giật mình vì tiếng chuông điện thoại trong phòng.
“Chắc lại có chuyện gì rồi, anh ấy không thể đến được”- vừa nghĩ bụng, cô vừa hối hả chạy lại bên chiếc điện thoại màu đỏ. Lưỡng lự một lúc, cô nhấc ống máy lên. Một giọng đàn ông vang lên trong ống nghe. Thoạt tiên cô không nhận ra ai. Sau mấy giây im lặng, giọng nói đó tự giới thiệu là Viện trưởng Viện Kiểm sát và muốn được đến thăm cô tại nhà riêng.
- Chắc cô chưa hết bàng hoàng phải không? Hôm qua một thế giới khác, hôm nay một thế giới khác. Như trong chuyện cổ tích vậy. Ông tiên của cô đang nói chuyện với cô đây. Chiều nay tôi có thể đến thăm cô được không, có một chuyện muốn nói riêng với cô?
- ... Tôi cũng... không biết.
- Cô mà không biết thì còn ai biết nữa? À, mà chuyện nhà cửa của cô đã ổn chưa? Hồ sơ về vụ đó vẫn còn lưu ở chỗ tôi... Có lẽ ta cùng bàn thì tốt hơn, đúng không cô?
- Ông có thể đến vào ngày mai được không... Tôi cảm thấy người không được khỏe...
- Thôi được, ngày mai nhé, tôi sẽ gọi điện lại.
Chiếc ống nghe tưởng chừng nặng trĩu trên tay Thảo, phải loay hoay một lúc cô mới đặt được nó vào đúng vị trí. Cô mường tượng rằng mình chỉ thoát ra được khỏi những chiếc song sắt thực sự, nhưng khó có thể thoát ra được những chấn song sắt vô hình. Và con người ta, hình như suốt cả đời, cứ phải chui hết từ nhà ngục này sang nhà tù khác của những nghĩa vụ và trách nhiệm thành văn hoặc bất thành văn vậy. Họa may chỉ có những giây phút sáng tạo của người nghệ sĩ mới chọc thủng được lớp hàng rào sắt vô hình trói buộc con người.
“Chắc phải đi khỏi mảnh đất này”, một ý nghĩa mơ hồ lóe lên trong đầu. “Nhưng đi đâu? Đi đâu cũng được, nhưng không thể sống giữa một lũ người quỉ ám này”. Cô ngạc nhiên vì chính mình đã gọi tên một cách đúng chỗ cuốn tiểu thuyết của nhà văn Dostoevski mà cô tình cờ đọc được trong thời gian ở tù.
“Đúng là một lũ người quỉ ám!” cô nhắc đi nhắc lại mấy lần liền. “Tại sao chúng không buông tha mình ra? Chúng không để cho mình sống cuộc sống của riêng mình?”
Uất ức quá, cô ngã sấp người lên giường khóc tức tưởi.
Những giọt nước mắt của cô còn chưa kịp thấm ướt lớp vải trải giường thì tiếng chuông cửa như tiếng chim hót vang lên. Cô ngồi bật dậy và lao ra như một ngọn gió vút trên thảo nguyên. Trọng, đương còn lúng túng vì bó hoa hồng trên tay, chưa kịp cất tiếng chào, đã cảm thấy cánh tay trần của Thảo quàng chặt lấy cổ và khuôn mặt ướt nước mắt của cô áp vào mặt mình. Đôi môi họ tìm và gắn chặt vào nhau trong một nụ hôn không cưỡng lại được. Hai người cứ đứng như thế trên ngưỡng cửa. Thời gian hình như không chuyển động. Thế giới xung quanh thôi tồn tại. Năm phút, mười phút và có thể còn lâu hơn...trôi qua. Cánh cửa nhà hàng xóm chợt hé mở. Thoạt tiên là một chú chó lông trắng tinh lách người ra, kéo theo phía sau là một bà già tóc cũng bạc trắng như tuyết. Con chó và bà già đều chững lại một tích tắc trước cảnh tượng của tình yêu, nhưng rồi cả hai đều im lặng đi ngang qua. Đi qua được mấy bước, chú chó ngộ nghĩnh lại quay lại, dí cái mũi ươn ướt vào đôi chân để trần của Thảo đang lơ lửng cách mặt đất và hít hít ngủi ngửi, đuôi ngoáy tít, có vẻ như nhận ra người quen cũ. Bà già kéo căng chiếc dây xích và quát lên: - Hư nào, không được quấy!
Chú chó hục hặc sủa lên mấy tiếng, hình như nó cũng biết ghen. Xuống đến giữa cầu thang rồi mà cu cậu vẫn còn ngoái đầu lại và ném về phía hai người những tiếng sủa ngắn, âm vang trong lòng hành lang rộng.
Thảo đưa tay ra phía sau lưng Trọng để khép cánh cửa lại.
Chợt Trong kêu ối một tiếng và hai người rời nhau ra trong lối đi tôi tối của hành lang.
- Sao thế anh?
- Anh bị gai của hoa hồng đâm.
- Những bông hoa đáng yêu quá, đã lâu lắm em chưa được ai tặng hoa.
Cô cầm bó hoa từ tay Trọng và kéo anh vào trong phòng khách rộng rãi, sáng sủa.
- Nhà em đây, anh cứ tự nhiên - cô chỉ vào chiếc đi-văng kê đối diện chiếc đàn dương cầm. - Anh đợi em một phút nhé, em cắm bó hoa này vào bình đã - vừa nói cô vừa chạy sang phòng bên cạnh. Trọng đang còn bàng hoàng, ngây ngất vì nụ hôn bất ngờ vừa qua thì Thảo đã bước vào, tay bê chiếc bình hoa bằng pha lê lấp lánh.
- Đây là bình hoa em được tặng trong một cuộc thi âm nhạc tại Praha - cô đặt bình hoa lên nắp hộp đàn dương cầm và lùi lại ngắm nghía. - Em yêu hoa hồng nhung nhất, sao anh biết được sở thích của em?
- Đấy cũng là loại hoa anh thích nhất - Trọng nói, ánh mắt anh không giấu giếm được vẻ ngưỡng mộ và thèm muốn đối với người con gái đang đứng trước mặt. - Em bị gai hồng đâm chảy máu ở ngực rồi! - anh chợt kêu lên.
Thảo vội cúi xuống nhìn. Một vết máu đỏ tươi thấm ra ngoài lớp vải trắng trên chiếc áo cô đang mặc.
- Tại anh đấy! - cô nũng nịu trách. - Bắt đền anh đấy!
Trọng đứng dậy và bước lại gần. Anh chủ động ôm ghì lấy cô và khi làn môi họ gắn lại với nhau một cách đắm đuối, anh khẽ thì thầm: - Anh đền cho em đây! - vừa hôn anh vừa bế thốc cô lên và đặt ngồi lên trên phím đàn dương cầm. Một hợp âm trầm trầm vang lên lan tỏa khắp căn phòng rộng. Đôi chim bồ câu đang đậu trên bậu cửa sổ bên ngoài nghiêng ngó nhìn vào trong phòng như muốn tìm hiểu nguồn gốc của những âm thanh bất chợt kia.
- Để anh xem vết thương nào - Trọng nói và cởi những chiếc cúc màu xanh cô-ban nhỏ xíu đằng sau lưng áo Thảo.
- Để em tự cởi.
Cô nhìn thẳng vào mắt anh và Trọng hiểu đôi mắt đó muốn gì.
Chiếc áo tuột khỏi bờ vai, để lộ ra khoảng ngực trắng ngần và một vệt máu đỏ tươi. Trọng cúi xuống hôn lên vết thương rỉ máu đỏ tươi và cảm thấy vị mặn ở đầu lưỡi. Những ngón tay của Thảo lùa vào mớ tóc dày và cứng của anh. Cô đứng thẳng người lên và chiếc áo váy rơi tuột xuống chân. Trọng hôn chậm rãi hai núm vú đỏ hồng, căng cứng và vểnh lên một cách tội nghiệp làm sao. Người cô nổi da gà và bàn tay trở nên lạnh toát. Cô ngửa đầu ra phía sau, hai tay chống mạnh lên các phím đàn. Một hợp âm như tiếng sóng biển xô vào kè đá để rồi vỡ òa ra thành ngàn vạn giọt nước li ti, dưới ánh mặt trời xuất hiện nửa hình cầu vồng bảy sắc.
Trọng bế Thảo lên giường.
Hai chú chim bồ câu ngoài cửa sổ đang gù nhau.
Không gian đượm mùi phấn hoa tử đinh hương từ ngoài cửa sổ thoang thoảng đưa vào.
40
-Em là người có lỗi - Thảo nói nhỏ, rút bàn tay đang đặt trên bộ ngực trần nở nang của Trọng lại. - Tất cả là vì em, em không kìm giữ được bản thân mình.
- Tại sao em lại tự dày vò mình một cách vô lý như vậy? Chẳng ai có quyền kết tội chúng ta.
- Nhưng anh đã có gia đình.
- Cuộc sống của vợ chồng anh không có hạnh phúc. Nhiều khi sau giờ làm việc, anh không muốn về nhà. Đã lâu lắm rồi, vợ chồng anh có ngủ với nhau đâu. Cô ấy chỉ quan tâm lo lắng đến giữ gìn tài sản, đến chuyện thăng quan tiến chức của anh. Còn anh thì chẳng khác gì một vai diễn trên sân khấu, cố làm sao để mọi người nhìn vào khỏi chê trách, để con cái hãnh diện với bạn bè, hàng xóm là cha mình có xe ô tô sang trọng, có biệt thự, có chức quyền. Còn chính bản thân anh thì sao? Anh thích gì, anh muốn gì? Anh sinh ra trên đời này để làm gì? Chẳng ai thèm đoái hoài quan tâm tới. Mọi cái anh có cả, chỉ không có tình yêu, chỉ thiếu một người phụ nữ tri kỷ - ngừng lại một lát, Trọng kéo đầu Thảo đang gối trên cánh tay mình lại gần hơn. - Bây giờ anh đã tìm thấy, và anh sẽ không bao giờ bỏ rơi...
- Đừng nói trước anh - Thảo đưa tay lên bịt miệng Trọng. - Sáng nắng chiều mưa, mọi cái trên đời này đều mong manh lắm! Em tự ngẫm cuộc đời mình... Đôi khi em thấy sợ... nhưng không hiểu sao, có anh bên cạnh em tự tin hơn.
- Có em bên cạnh, anh thấy cuộc sống đáng sống hơn.
Hai thân thể lại gắn chặt vào nhau, môi tìm môi, ngực sát ngực. Ánh nắng buổi chiều từ ngoài cửa sổ hắt vào chia đôi chiếc giường, chia đôi hai cơ thể đang quyện vào nhau làm một.
Nếu không có tiếng đồng hồ treo tường điểm thì hai con người đang hạnh phúc đó đâu biết đến sự tồn tại của thời gian. Họ chỉ muốn những giây phút này vĩnh cửu, vô tận. Nhưng, hai người đâu biết rằng, chỉ cách họ một bức tường thôi, trong một căn phòng ẩm thấp thiếu không khí và ánh sáng, một bà cụ già cô đơn đã qua đời. Người ta chỉ biết được khi bà bán bánh ở cửa tiệm đầu phố không thấy người khách quen hàng ngày của mình đến mua chiếc bánh mì nhân quả dâu tây mà bà ưa thích. Có lẽ đó cũng là một sự xa hoa duy nhất mà bà già cô độc, ốm yếu đó cho phép mình được hưởng thụ trong những ngày cuối cùng của đời mình.
Khi hai người đang hôn nhau chia tay ở trên cầu thang thì gặp bà già tổ trưởng tổ hưu trí đi thu tiền quyên góp tang lễ của các hộ trong khu nhà.
- Cô đã về đấy à? Cô có khỏe không?
- Dạ cảm ơn bà, cháu vẫn khỏe.
- Bà Dôia mất rồi.
- Thật thế sao? - Thảo hỏi lại, giọng thảng thốt. Sự thảng thốt thường thấy khi người ta nghe tin về cái chết của một người thân quen nào đó mà mới hồi nào vẫn còn đi lại, nói năng, tán chuyện gẫu với mình.
- Chúng tôi đi quyên góp để mua áo quan cho bà ấy. Chẳng còn một ai thân thích trên đời nữa.
Trọng đặt vào tay bà già một tờ giấy bạc khiến bà tròn mắt ngạc nhiên, mắt cứ hết nhìn tờ giấy bạc gấp làm tư trong lòng bàn tay lại nhìn lên khuôn mặt Trọng như thể sợ rằng anh có thể nhầm.
- Ông ấy hảo tâm quá - bà quay ra nói với Thảo. - Ông ấy có hiểu tiếng Nga không?
- Nghĩa tử là nghĩa tận - Trọng nói với bà bằng tiếng Nga.
- Cô gặp được người đàn ông quí hóa quá - giọng bà hơi phá chút ghen tỵ. - Thôi chúc cô vạn sự tốt lành. - Đến gần hết cầu thang, bà chợt dừng lại nói: - À mà này, tiền lò sưởi và nước nóng lại tăng rồi đấy, cô biết chưa?
Chẳng ai đáp lại câu hỏi đó của bà. Đôi môi của hai người đang còn gắn chặt vào nhau thì việc tiền sưởi tăng hay giảm liệu có ý nghĩa gì?
Bà già nhìn đôi trai gái một lúc rồi tiến tới cánh cửa của một hộ gia đình đối diện cầu thang và bấm chuông.
41
Thảo bị thức giấc vào lúc quá nửa đêm. Cô nằm mơ thấy mình bị săn đuổi trong rừng, vấp ngã rồi lại chồm dậy chạy tiếp nhưng không làm sao thoát được tiếng thở hổn hển, nóng hôi hổi và sặc sụa mùi rượu của kẻ đang muốn bắt cô ở ngay sát sau lưng. Cô gào lên và tỉnh hẳn. Người vã mồ hôi. Cô quờ tay bật chiếc đèn bàn ở đầu giường. Ánh sáng khiến trái tim cô lấy lại được nhịp đập bình thường. Đêm yên tĩnh quá, nhưng lòng cô không yên. Vừa thoát khỏi nơi giam cầm về thể xác, được hưởng chưa trọn vẹn một ngày của tự do, của tình yêu, cô đã cảm thấy một bàn tay vô hình nào đó đã túm lấy gáy. Cuộc nói chuyện điện thoại hôm qua với viên Viện trưởng Viện Kiểm sát là một bằng chứng về sự hiện diện của cái lưới vô hình đang treo lơ lửng trên đầu cô.
“Thằng cha ấy muốn gì ở mình?” cô tự hỏi. “Hay đòi trả công bằng tình dục?”
Đây đâu phải là lần đầu tiên cô giáp mặt với câu hỏi đó. Cô biết sức hút giới tính của con người mình. Nó vừa làm cô thích thú, kiêu hãnh nhưng đồng thời cô cũng cảm thấy được những hậu quả không tốt luôn luôn ẩn nấp phía sau. Cô nhớ đến bà Zinaiđa vợ của ông Thị trưởng đã quá cố. Cô nghi ngờ rằng việc cô phải ngồi tù còn có bàn tay ẩn khuất của chính bà ta thao túng phía sau. Cô nhớ đến những ánh mắt ghen tị gần như căm thù của nhiều người đàn bà khác mà không khỏi cảm thấy tủi thân.
“Liệu vợ anh Trọng sẽ nghĩ như thế nào nếu biết được chuyện này?” Cô láng máng nhớ lại khuôn mặt của người đàn bà Việt Nam nhỏ bé bị ngất xỉu trên sân khấu năm nào và chiếc trâm cài đầu bà tặng hôm tiễn chân ra sân bay.
“Số phận thật khéo sắp xếp làm sao để mình trở thành kẻ tình địch với người phụ nữ đáng yêu đó ở nửa bên kia bán cầu? Mọi cái hình như đã được định mệnh an bài, con người ta không cưỡng lại được. “
Những giọt nước mắt ở đâu không biết bỗng ứa ra trên bờ mi cô. Cô khóc thương cho ai, cho người đàn bà mà cô đang dan díu với chồng của bà ta hay là cô khóc thương cho chính thân phận mình. Cô cần một tình yêu không đổi chác, một tình yêu mà vì nó cô có thể đứng thẳng người lên sau bao cay đắng của những tháng ngày tù đày. Một tình yêu đem lại cho cô cảm hứng sáng tạo. Cô đã tìm thấy. Nhưng phải chăng đấy chỉ là một đám mây đẹp bay ngang qua bầu trời. Cô có quyền gì sở hữu đám mây đó? Anh ấy sẽ về với gia đình vợ con ở nhà. Những lời nói của đàn ông trong lúc yêu đương làm gì được cấp giấy bảo hành? Mình sẽ lại đơn độc đối đầu với cuộc đời đầy cạm bẫy và mưu mô đang rình rập ở phía trước.
“Có nên nói với anh Trọng chuyện này không? Có thể anh ấy sẽ cho những lời khuyên tỉnh táo nhất.” Cô tự hỏi và lại tự trả lời ngay: “Thôi được, cứ để gặp hắn xem sao”.
42
Trong lúc chờ tiếng chuông không mong đợi, đầy những dự cảm chẳng tốt lành, Thảo ra đứng ngoài ban-công hút thuốc. Từ đây có thể nhìn rõ khoảng sân khá rộng của cả khu nhà. Một đám trẻ nhỏ đang chơi trong những bồn cát lớn dưới con mắt trông chừng của các bà già. Một đôi thanh niên đang hôn nhau trên chiếc ghế đá ở gần đó. Trên chiếc ghế đối diện họ là một gã nghiện rượu đang nằm ngủ say sưa, tay chân dang rộng và bên cạnh lăn lóc một chai rượu uống dở. Một con chó con lông màu trắng rón rén bước lại gần chiếc túi xách để dựa vào chân ghế. Nó hít hít, ngửi ngửi, hình như đánh hơi thấy có gì đấy ăn được bên trong chiếc túi này. Đôi mắt nó lấm lét nhìn gã say đang ngáy phì phò, sủi cả bọt mép. Nó dùng một chân kéo đổ chiếc túi xuống. Và quả không hổ danh cho khướu giác của giống chó, từ trong túi lăn ra một khúc giò đã bị cắn nham nhở. Con chó tinh khôn ngậm ngay miếng giò và lảng ra xa tới chỗ gốc cây dương. Chú ta thả miếng giò xuống, đuôi ngoáy tít vì bỗng nhiên được một bữa chén thịnh soạn bất ngờ. Nhưng niềm vui thật ngắn ngủi, một con chó đen cao to bỗng xuất hiện ở trong khung cửa ra vào của ngôi nhà đối diện. Đôi mắt đỏ ngầu của nó nhanh chóng bắt được mục tiêu. Chỉ bằng vài cái vươn mình, nó đã tới ngay sát gốc cây dương. Thế là bắt đầu một cuộc rượt đuổi vòng quanh cái sân yên tĩnh đầy những đốm nắng xuyên qua các tán lá cây đã bắt đầu xém vàng, mà nguyên nhân chính là miếng giò đang ngậm trong mồm của chú chó trắng nhỏ bé. Sau vòng đuổi thứ nhất, khoảng cách hai bên đã gần lại. Sang đến vòng thứ hai thì Thảo tin chắc rằng con chó đen cao to kia không chóng thì chầy cũng sẽ cướp được miếng thịt. Cô nhoài cả người ra để quan sát cuộc chiến đấu sinh tồn tranh giành miếng ăn của hai con chó.
“Cá lớn nuốt cá bé”, cô thầm nghĩ và thấy thương cho con chó con chạy phía trước. Nhưng thật bất ngờ, tưởng chừng chỉ còn vài sải chân nữa là kết thúc cuộc đua không cân sức, bỗng con chó con quay ngoắt người lại, lông ở cổ dựng đứng lên, từ trong cổ họng phát ra những tiếng gầm gừ dữ tợn. Hai chân trước choãi ra thủ thế, đầu cúi sát xuống đất. Con chó đen vội phanh người lại, bốn móng vuốt cào lên trên mặt đất thành những vệt dài. Bốn ánh mắt đỏ đòng đọc giao nhau. Cuộc đấu mắt diễn ra trong vòng nửa phút và đột nhiên con chó đen bỏ chạy. Thật hết sức kỳ lạ, cuộc rượt đuổi lại tiếp diễn, nhưng lần này theo chiều ngược lại. Con chó đen, to, chạy trước và con chó trắng , nhỏ, chạy đuổi phía sau. Không biết sự thể sẽ đi đến đâu nếu như không có ông chủ của con chó đen xuất hiện. Đúng là chủ như thế nào chó cũng như thế. Người đàn ông to béo, bụng phệ , tay và cổ đeo đầy vòng bạc, khuôn mặt kiêu căng tự phụ. Ông ta huýt sáo gọi con chó của mình lại và cả hai khệnh khạng đi ra phía ngoài đường.
Thảo cứ suy nghĩ mãi về hành vi ứng xử của hai con chó dưới sân. Bất chợt, một ý nghĩ vụt đến trong đầu cô như một ánh chớp: “Không thể cứ bỏ chạy mãi được, phải quay đầu lại và nhe răng giơ vuốt ra. Sống giữa bầy sói thì cũng phải hú lên như sói”.
Cô định châm một điếu thuốc lá nữa thì tiếng chuông cửa vang lên. Mặc dù đã chuẩn bị tinh thần từ trước, song cô vẫn bị giật mình.
Một bông hồng lớn trong tay khiến cho người đàn ông đứng đầu một cơ quan quyền lực trông bớt đi cái vẻ quá ư đạo mạo và nghiêm trang khiến người yếu bóng vía phải ớn lạnh sống lưng.
- Ông đi một mình thôi sao? - Thảo lên tiếng hỏi và mở rộng cánh cửa ra.
- Cô nghĩ tôi còn phải đi cùng ai nữa?
- Bảo vệ chẳng hạn. Cuộc sống của những người quan trọng như ông đáng giá hơn cuộc sống của những người khác.
- Tôi chưa bước vào cửa cô đã tấn công tôi ghê quá.Tôi đến đây đâu phải vì mục đích công việc mà đến để tặng hoa cô và nói những câu chuyện về âm nhạc, về cuộc sống... Xin cô cầm cho bông hồng này.
- Bông hồng đẹp quá, ông vào nhà đi, xin lỗi vì tôi chưa kịp dọn dẹp.
- Không sao hết. Được cô tiếp đón tại nhà riêng thế này tôi cũng cảm thấy hãnh diện và hạnh phúc hơn hàng ngàn người đàn ông đã từng hâm mộ cô cũng như âm nhạc của cô.
- Ông nói quá lời vậy thôi. Tôi đâu có xứng đáng được như vậy. Người tôi vẫn đang còn bốc mùi nhà tù của các ông thì những lời nói bóng bẩy đó của ông chẳng khác gì một sự nhạo báng.
- Sao cô lại hiểu sai thiện ý của tôi như vậy. Nếu không hâm mộ cô, làm sao tôi lại dám nhận trách nhiệm giúp cô giảm án và ra tù trước thời hạn được.
- Tôi rất biết ơn ông về điều này - Thảo nói nhỏ và cúi mặt xuống.
- Đây đâu phải là chuyện ơn huệ...
- Thế thì là chuyện gì? - Thảo ngẩng đầu lên, phóng thẳng ánh mắt sắc lạnh của mình vào khuôn mặt to phè của ông khách. Bị ánh mắt của cô thôi miên, ông viện trưởng trở nên bối rối. Ông thay đổi tư thế ngồi trên chiếc ghế nhỏ bé so với khổ người của ông.
- Tôi muốn cô... nói như thế nào nhỉ? Tôi biết nếu tôi nói ra điều này, cô sẽ nghĩ tôi có đầu óc con buôn. Giúp cô rồi lại đặt điều kiện với cô. Nhưng ngoài cô ra không ai làm được...
- Ông cứ nói thẳng đi, cần gì phải quanh co như vậy.
- Tôi muốn cô hợp tác với chúng tôi trong công việc.
- Hợp tác trong công việc? Ông không nói nhầm đấy chứ? Tôi thì giúp được gì cho Viện Kiểm sát?
- Đấy là cô quá khiêm tốn thôi. Một sắc đẹp như cô, một tài năng như cô mà lại nói thế. Chúng ta gạt quá khứ sang một bên. Cô cũng cần phải sống tiếp cuộc đời còn rất trẻ của mình, phải sống một cuộc đời danh giá, sung túc chứ không phải cuộc sống của một giáo viên dạy đàn hưởng lương tháng. Những tháng ngày trong tù chắc làm cô hiểu được thế nào là sự bần cùng khổ cực, thế nào là sự sỉ nhục. Con người ta sống ở đời không tiền bạc, không thế lực mới nhỏ bé làm sao! Tài năng và sắc đẹp của cô cũng phải biết sử dụng không thì rất uổng, đấy là một tài sản lớn cần phải được đầu tư đúng chỗ. Tôi nói thế, cô thấy có đúng không?
Trong lúc Thảo im lặng, chìm đắm trong suy tư thì ông viện trưỏng đứng dậy khỏi ghế và làm một cuộc bách bộ chậm rãi xung quanh căn phòng khách. Vẻ mặt của ông, ánh mắt của ông nói lên vẻ đắc thắng của kẻ đã bắn một mũi tên trúng đích. Ông tiến tới bình hoa hồng để trên bàn và cúi xuống một bông hít hít ngửi ngửi rồi lại chậm rãi ngẩng đầu lên xem kỹ từng bức tranh, bức ảnh treo trên các bức tường.
- Chắc cô nghĩ rằng tôi đến đây để đòi hỏi tình yêu của cô, để đổi lấy việc tôi đã giúp cô thoát khỏi nhà tù? Nếu cô nghĩ như thế thì thật oan cho tôi quá.
- Tôi đâu có nghĩ vậy - giọng Thảo hơi run run.
- Tôi rất mừng khi cô không có ý nghĩ ấy trong đầu - ông ta dừng lại bên cạnh chiếc đàn piano và ấn vài nốt nhạc.
- Thế cụ thể ông muốn tôi phải làm gì? - mãi một lúc sau, Thảo mới thốt lên được.
- Tôi muốn cô chơi nhạc, muốn cô hát và trang điểm thật lộng lẫy. Cô lại nghĩ sai về đề nghị của tôi rồi - nhìn ánh mắt ngạc nhiên của Thảo, ông khách hạ giọng, nói - Đấy, việc của cô chỉ gói gọn như vậy, nhưng cụ thể ở đâu, khi nào thì ngày kia cô đến gặp tôi tại cơ quan và chúng ta sẽ bàn cụ thể hơn. Còn đây là toàn bộ hồ sơ về vụ bê bối xung quanh ngôi nhà của cô đang ở đây. Cô giữ làm kỷ niệm cũng được hoặc không thì đốt đi cũng chẳng sao - vừa nói, ông vừa rút trong chiếc cặp da đen tập giấy tờ và đặt nó lên bàn. - Thôi, tôi xin phép về và hy vọng cô không thay đổi quyết định của mình. Hẹn gặp cô ngày mai tại số 5 đường Sumska.
Khi bước chân ra khỏi tòa nhà màu xám của Viện Kiểm sát, cô hít một hơi thật sâu vào trong lồng ngực như thể suốt một tiếng trong phòng làm việc của ông viện trưởng, cô phải ngụp lặn thật sâu trong một vũng nước xoáy có cá mập luôn luôn rình rập và bây giờ mới được ngoi lên khỏi mặt nước. Hình như cuộc gặp gỡ vừa rồi đã xô đẩy cuộc đời cô sang một hướng khác, một hướng mà bằng linh cảm của người phụ nữ, cô biết nó sẽ không có sự bình yên. Ở đây, cô sẽ chẳng bao giờ tìm được một người bạn đáng tin cậy và mọi hành động và lời nói của mình đều phải cân nhắc kỹ lưỡng nếu không cô sẽ phải trả giá đắt nếu như không nói là bằng chính sinh mạng của mình...
“Cô thông minh, xinh đẹp và có tài năng, tôi nghĩ cô sẽ không bỏ mất cơ hội vàng cho cuộc đời mình mà đối với mỗi con người đôi khi nó chỉ đến có một lần duy nhất. Chuyến đi Matxcova sắp tới của cô là một cơ hội không dễ gì lặp lại lần thứ hai”, cô nhớ lại lời nói của ông viện trưởng trước lúc chia tay. Túi xách tay của cô còn cộm lên chiếc phong bì đựng khoản tiền ứng trước mà lúc bước ra khỏi phòng, ông đã đưa cho cô với mấy lời kèm theo khó mà biết được giả dối hay chân thật: “Tôi biết cô đang khó khăn, cứ cầm lấy đi, đừng nhìn tôi bằng ánh mắt ngờ vực như vậy!”
43
Cuộc khủng hoảng về dầu khí giữa Ucraina và Nga không phải là điều gì quá bất ngờ đối với những ai có chút hiểu biết về lịch sử ngoại giao của nước Nga đối với các nước láng giềng của mình. Thường mỗi khi mùa xuân đến, các nhà tài phiệt về dầu hỏa của Nga đang nắm vị thế độc tôn trên thị trường Ucraina, đều đồng thanh nhất loạt nâng giá nguyên liệu. Sự tính toán của họ rất đơn giản. Công việc đồng áng bắt đầu. Việc khó khăn về nguyên liệu dầu mỡ có thể là nguyên nhân dẫn đến mất mùa cho đất nước. Để cứu người nông dân, nhà nước phải xắn tay can thiệp vào. Các nhà tài phiệt dầu khí của Nga sẵn sàng ngồi vào bàn đàm phán với các quan chức của Ucraina và tha hồ đặt ra những điều kiện có lợi cho mình vào những năm sau.
Qua cửa kính chiếc xe BMW, Tachiana nhìn thấy hàng dãy xe ô tô xếp hàng ở các trạm bán xăng. Các con số ghi trên các tấm biển giá khiến người đồng hành của cô ngồi ở ghế trên cũng phải ngoái đầu lại nhìn. Chiếc cổ áo trắng tinh thít chặt lấy lớp da đỏ sẫm nơi cổ và chiếc mũi to sụ khoằm khoằm điển hình Gruzia của ông khiến Tachiana thấy chờn chợn. Cô cố tình đưa ánh mắt nhìn sang hai bên đường và cong ngón tay trỏ đeo chiếc nhẫn Trọng mới tặng gõ nhịp lên vỏ hộp đàn violon để trên ghế ngay bên cạnh.
- Số phận của mùa màng năm tới của thành phố K. lại nằm trong tay hai con người có gốc gác nước ngoài là tôi và cô, kể cũng thật trớ trêu, cô có hút thuốc không? Cô muốn bỏ thuốc hả, tốt thôi, nhưng hút với tôi một điếu đi, lấy may trong chuyến đi này - ông chìa chiếc hộp thuốc lá bằng bạc chạm khắc cầu kỳ ra phía sau. Tachiana nhón lấy một điếu, cùng lúc người lái xe đưa lại cho cô chiếc bật lửa.
Miladze là tên của ông. Ông tốt nghiệp khoa Biên kịch và Đạo diễn của Học viện Văn hóa mang tên nhà thơ vĩ đại Shevchenko, nhưng sau lại bỏ nghề. Ông sinh ra tại Tbilisi trong một gia đình trí thức nghệ sĩ. Khi ông được năm tuổi thì cả gia đình chuyển về K. sinh sống. Cha ông là họa sĩ, mẹ diễn viên. Họ sống một cuộc sống không lấy gì làm dư giả như nhiều gia đình nghệ sĩ khác dưới thời Xô Viết. Nhưng rồi một sự kiện đã xảy ra khiến số phận của gia đình ông xoay theo một hướng hoàn toàn mới. Cha ông được nhận một đơn đặt vẽ chân dung của người đứng đầu nhà nước Ucraina. Từ đó gia đình ông đuợc sự bảo trợ trực tiếp của chính phủ cho đến khi Liên Xô tan rã, cũng là năm ông tốt nghiệp đại học. Gia đình ông lúc đó cũng như hàng triệu gia đình khác, chưa hết cơn bàng hoàng choáng váng trước sự sụp đổ không ai ngờ tới của một thể chế chính trị tưởng chừng vĩnh cửu. Một đế quốc hùng mạnh tan rã ngay trên bàn ăn của mỗi gia đình. Những bộ ấm chén, bát đĩa sang trọng của quê hương Gruzia bị xếp vào trong kho vì chẳng có dịp nào dùng đến hoặc nối chân nhau ra chợ trời hay các cửa hàng đồ cũ. Nghệ thuật trở thành một thứ xa xỉ không cần thiết vì bụng trống rỗng và sôi ùng ục. Mặc dù có đôi chút lưỡng lự nhưng cuối cùng ông cũng nhận lời vào làm việc cho Bộ Nội vụ của tỉnh K.. Chính tại đây ông lại phát huy được năng khiếu và kiến thức học được trên giảng đường nên được thăng tiến rất nhanh. Ông học thêm một bằng kinh tế nữa và chỉ một năm sau đã giữ chức Trưởng ban An ninh Kinh tế đặc trách lĩnh vực năng lượng của Ủy ban an ninh tỉnh. Kịch bản của chuyến đi công tác lần này do chính ông nghĩ ra, vừa đạo diễn và thủ vai chính.
Tachiana đẩy mạnh tấm rèm che ô cửa kính hình tròn bên thân máy bay và ngả người ra ghế. Cô vừa đeo tai nghe nhạc vừa lật giở tập hồ sơ về con người mà cô phải tiếp cận. Cuộc đời thật như một giấc mơ. Mới mấy hôm trước cô còn lụng thụng trong chiếc áo sọc tù nhân, đứng mỏi chân xếp hàng để nhận được một khẩu phần ăn mà chắc chó cũng chỉ ngửi rồi bỏ đi. Còn bây giờ, mọi cái xung quanh cô đều thơm phức, sang trọng. Cô nhìn lớp móng tay màu trắng phủ nhũ kiểu cách của mình và cảm thấy tự tin trở lại. Cô lấy bộ đồ trang điểm ra và nhìn ngắm lại khuôn mặt đã được một salon vào loại sang nhất K. trang điểm hơn ba tiếng đồng hồ. Cô thích thú ngắm nhìn qua chiếc gương con những bộ mặt của hành khách ngồi ở phía sau. Một đôi thanh niên đang hôn nhau đắm đuối. Cô nhìn thấy nửa cánh tay của anh con trai mất hút trong bộ ngực khá đồ sộ của bạn gái. Bên cạnh là một ông già đang vừa áp cuốn Tạp chí Playboy lên ngực vừa ngủ, kính rơi xuống sống mũi. Tachiana khẽ bật cười vì cái đầu tròn lông lốc, nhăn nheo của ông già gắn kết vô tình với tấm ảnh một cô gái đứng khỏa thân dạng hai chân trên bìa tạp chí tạo nên một bức tranh biếm họa rất độc đáo. Cô chiêu đãi viên bước lại gần Tachiana và cất tiếng hỏi xem có cần dùng gì không. Tachiana yêu cầu nước khoáng. Mấy phút sau, cô chiêu đãi viên quay trở lại, đặt chai nước khoáng lên chiếc bàn con trước mặt Tachiana và chìa ra một tấm bưu thiếp.
- Cô có thể cho tôi xin chữ ký được không?
Tachiana hơi ngạc nhiên, đồng thời một tình cảm hãnh diện sung sướng lan tỏa trong cơ thể như những dòng nước mát len lỏi, lan rộng trên những cánh đồng khô nẻ vì hạn hán. Sự hâm mộ của công chúng mà bẵng đi một thời gian cô không được biết tới, nay trở lại đột ngột như một liều thuốc trợ lực mạnh khiến cô ngây ngất.
Cô chiêu đãi viên đi về phía buồng lái và mất hút sau tấm rèm. Nhưng chỉ ngay sau đó mấy phút, cô lại xuất hiện và đi lại bên cạnh Tachiana thì thầm điều gì đó vào tai. Cô gật đầu và đứng dậy khỏi chỗ của mình để bước theo cô chiêu đãi viên.
Hóa ra, tổ lái muốn được chiêm ngưỡng dung nhan của nữ nghệ sĩ.
- Họ nói họ sẵn sàng vi phạm kỷ luật để được nhìn thấy cô bằng xương bằng thịt - cô chiêu đãi viên quay lại nói nhỏ với Tachiana.
Cánh cửa buồng lái bật mở. Cả một khoảng trời mênh mông trải rộng ra trước mắt. Những núi mây đủ các hình dạng chói chang dưới ánh sáng mặt trời. Bốn chàng phi công đều còn trẻ quay cả lại cất tiếng chào. Họ lần lượt hôn tay cô. Một chàng phi công đứng dậy nhường ghế cho cô.
- Chắc chị chưa bao giờ ngồi ghế phi công - anh ta nói và đội lên đầu Tachiana chiếc mũ của mình.
Chắc là có sự chuẩn bị từ trước, cô chiêu đãi viên xuất hiện ở ngưỡng cửa buồng lái với chiếc máy ảnh nhỏ xíu trong tay.
Chính bức ảnh này, hai năm sau đó, đã được dùng làm áp-phích trong cuộc vận động tranh cử vào Hội đồng nhân dân thành phố của Tachiana.
Chiếc máy bay hạ độ cao và mất hút sau một đám mây có hình thù như một đóa san hô...
Bán đảo Crưm
Mùa hè 2007