6/12/09

Nghiên cứu về cuộc chiến tranh biên giới 1979 của một người Trung Quốc

Cuộc chiến tranh biên giới 1979 chống quân xâm lược Trung Quốc đã đi qua được 30 năm. Mặc dầu ngày nay hai nước đã bình thường hóa quan hệ, nhưng “…ý thức về vị trí bề trên của người TQ vẫn thống trị tư tưởng của họ trong quan hệ với VN . Mặc dầu lãnh đạo TQ lặp đi lặp lại tuyên bố rằng VN sẽ được đối xử “bình đẳng” nhưng người ta lại thấy rằng chính những phát biểu hùng biện đó đã phản ảnh niềm tin mạnh mẽ nơi họ rằng “họ đã chiếm một vị trí mà từ đó có thể đề ra được mọi giá trị và đạo lý cho hành vi để chi phối các mối quan hệ với các nước láng giềng…” . Ông Trương Tiểu Minh, một người gốc Trung Quốc, hiện là giáo sư học viện chiến tranh không quân Hoa Kỳ, đã có một nghiên cứu rất công phu, dựa trên những luận cứ chắc chắn, bằng những lập luận đầy sức thuyết phục đã cho thấy bức tranh thật sự trung thực về những gì đã xảy ra của cuộc chiến tranh, những hậu quả của cả hai bên sau cuộc chiến. Chúng tôi xin giới thiệu lược trích công trình nghiên cứu của ông. Những ai có nhu cầu quan tâm xin xem toàn bộ bài viết ở đây, qua bản dịch của Lưu Phương Bình.

Bắc Kinh (BK) và Hà Nội (HN) là những đồng minh thân thiết kể từ cuộc chiến tranh Đông Dương (ĐD) lần thứ nhất đầu những năm 1950. Tại sao sau đó nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa lại đi đến quyết định tiến hành chiến tranh với nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa VN vào cuối năm 1978? Theo BK thì dường như nguyên nhân là do “giấc mộng xưng bá” của HN ở khu vực ĐNÁ; gây hấn ở biên giới với TQ và xâm phạm vào lãnh thổ của TQ; ngược đãi với người Hoa ở VN; đi theo Liên Xô (LX) trong lúc nước này đang muốn mở rộng ảnh hưởng của nó ở ĐNÁ . Các nhà quan sát vào thời điểm đó và nhiều nghiên cứu sau này cho rằng các mục tiêu thiện ý của BK là làm giảm bớt áp lực quân sự lên Căm-Pu-Chia (CPC), buộc quân đội VN phải san sẻ ở mặt trận thứ hai . Rô-bớt Rôt-xơ (Robert Ross) cho rằng việc sử dụng quân đội chống lại VN không phải là phản ứng trước sự bành trướng của HN ở ĐD mà là phản ứng trước sự vào hùa của VN với LX nhằm bao vây TQ từ ĐNA . Những nghiên cứu khác lại tranh cãi rằng sự xâm lược của TQ nhằm làm mất thể diện của LX, nước đang đóng vai trò như một đồng minh tin cậy của HN trong trường hợp xảy ra khủng hoảng .

Trong một nghiên cứu về mối quan hệ của BK với HN trước khi có chiến thắng 1975, Trại Cường (Zhai Qiang) đã cho rằng “chính sách thực dụng không chỉ là lời nói suông” được phát đi từ các nhà lãnh đạo TQ khi đề cập đến các mối quan hệ quốc tế. Mặc dầu họ tuyên bố chính họ là những người quốc tế chủ nghĩa Mác-Lê nin song họ lại kế thừa một cách đầy đủ cái di sản lịch sử của Trung Hoa: quan niệm về một đại Hán là trung tâm của thế giới. Các quốc gia nhỏ bé khác bên ngoài TQ, trong đó có VN, sẽ là những chư hầu và nằm trong quỹ đạo ảnh hưởng của TQ. Mặt khác, “niềm kiêu hãnh lịch sử và độ nhạy cảm văn hóa” là nhân tố chính có ảnh hưởng đến thái độ của người VN đối với TQ. Suốt chiều dài lịch sử của mình, người VN đã thích thú khi vay mượn và bắt chước nền văn minh cũng như thể chế TQ để làm nên bản sắc riêng, trong khi đó họ lại rất sắt đá trong việc bảo tồn di sản văn hóa và nền độc lập của họ. Họ đã thấy rằng khi họ yếu thì TQ giúp đỡ nhưng khi họ giành được tự do và thống nhất đất nước trước sự xâm lăng bên ngoài thì TQ lại tỏ ra thù địch . Những hình ảnh lịch sử về mối quan hệ qua lại được lãnh đạo và nhân dân hai nước giữ gìn dường như đã đóng một vai trò đáng kể trong quyết định của BK khi tiến hành cuộc tấn công trừng phạt VN.

Từ đầu những năm 1950, TQ đã là người hậu thuẫn mạnh mẽ của HN trên cả hai lĩnh vực quân sự cũng như chính trị. TQ đã giúp đỡ VN trong cuộc đấu tranh cách mạng chống lại Pháp và đánh đuổi xâm lược Mỹ. Những nghiên cứu ngày nay đã chỉ ra rằng chính sách của TQ dành cho HN trong hai cuộc chiến tranh ĐD đầu tiên là xuất phát từ việc cân nhắc nhiều mặt giữa truyền thống lịch sử cho đến ý thức hệ cách mạng và an ninh quốc gia. Tuy nhiên, ý thức về vị trí bề trên của người TQ vẫn thống trị tư tưởng của họ trong quan hệ với VN . Mặc dầu lãnh đạo TQ lặp đi lặp lại tuyên bố rằng VN sẽ được đối xử “bình đẳng” nhưng Trần Kiên (Chen Jian) lại thấy rằng chính những phát biểu hùng biện đó đã phản ảnh niềm tin mạnh mẽ nơi họ rằng “họ đã chiếm một vị trí mà từ đó có thể đề ra được mọi giá trị và đạo lý cho hành vi để chi phối các mối quan hệ với các nước láng giềng ”. BK nói rằng không bao giờ gây sức ép về chính trị và kinh tế thông qua viện trợ vật chất và quân sự khổng lồ cho HN. Nhưng họ lại muốn HN phải thừa nhận vai trò lãnh đạo của TQ đối với phong trào giải phóng dân tộc trong khu vực và trên thế giới. Thái độ này của TQ đã khiến VN, một quốc gia rất nhạy cảm với quá khứ đầy dãy những rắc rối với Trung Hoa, trở nên tức giận. Mặc dầu có lúc BK và HN gọi nhau là “những người đồng chí anh em” nhưng sự thật là mối ác cảm của người VN với mô hình hiện đại của TQ trong quan hệ với họ mỗi ngày một gia tăng .

Một tài liệu TQ đề cập đến chiến tranh 1979 đã tiết lộ rằng các báo cáo về những hoạt động xấu chơi của VN từ năm 1975 đã làm tổn thương mạnh đến ý thức bề trên của người TQ. Ban lãnh đạo chóp bu của VN đã thông qua một chính sách coi đế quốc Mỹ là kẻ thù lâu dài nhưng lại coi TQ là “kẻ thù nguy hiểm, trực tiếp nhất”, và là “kẻ thù tiềm năng mới” mà VN phải chuẩn bị để chiến đấu . Trong một phản ứng, chủ nhiệm tổng cục chính trị của quân đội nhân dân VN (QĐNDVN) đã nhấn mạnh các lực lượng vũ trang VN sẽ phải tiến hành một chiến lược tiến công quân TQ, chủ động tấn công và phản công đánh đuổi kẻ thù bên trong và thậm chí cả bên ngoài lãnh thổ VN, và biến cả miền biên giới thành mặt trận chống Tàu. Thái độ coi thường của VN đối với QGPND và sự cả tin vào sức mạnh quân sự của mình đã là chất xúc tác thúc đẩy quân đội TQ tiến hành chiến tranh. Lực lượng chiến đấu đã được tôi luyện của QĐNDVN đã tham gia tác chiến hầu như liên tục trong hàng thập kỷ và đã chiến thắng được hai cường quốc lớn Phương Tây. Trong khi đó các chuyên gia VN cho rằng khả năng và tinh thần chiến đấu của QGPND là thấp kém và hạn chế. QĐNDVN rất tự hào với vũ khí của Nga và các trang thiết bị thu được của Mỹ. Theo các hãng truyền thông của VN các vũ khí đó hơn hẳn với bất kỳ trang bị nào của QGPND .

Trong hơn hai mươi năm qua TQ đã viện trợ cho HN hơn 20 tỷ đô la Mỹ, nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác. Khi VN bắt đầu ép buộc người Hoa ở miền bắc hồi cư và gia tăng bạo lực trên biên giới với TQ, nhiều người TQ đã nghĩ rằng HN vong ơn bội nghĩa trước những giúp đỡ và hy sinh của TQ. Đã có những biểu tình công cộng phản đối VN . Những ai đã từng giúp đỡ những người cộng sản VN trong chiến tranh chống Pháp và Mỹ đã cảm thấy như bị phản bội và đã hăm hở để “dạy cho VN bài học”. Trong số đó có Đặng Tiểu Bình, phó thủ tướng và là tổng tham mưu trưởng QGPND. Đặng tỏ ra bực mình với thái độ khiếm nhã của VN đối với những giúp đỡ của TQ còn được sử sách ghi chép từ giữa những năm 1960 . Sự thù nghịch giữa hai nước đã tăng mạnh vào cuối những năm 1970, và ngày càng trở nên cảm tính, thậm chí đã có lúc VN được gọi là đồ khốn nạn (wangbadan) trước một nhà lãnh đạo nước ngoài . Các nhà lý luận quân sự nói chung đều nhất trí rằng đã hình thành một tình trạng “thù nghịch ở cả hai phía, giận dữ và căm thù …sục sôi” . Sự láo xược của VN thể hiện qua những va chạm dọc biên giới mỗi ngày một tăng và sự ra đi của người Hoa đang diễn ra đã tạo nên xúc động mạnh và cân nhắc dùng vũ lực trong các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự TQ.

Đặng Tiểu Bình ra quyết định

Mặc dầu cỗ máy chiến tranh của TQ đã được khởi động từ đầu tháng Mười Hai, nhưng ngày tấn công chính xác vẫn chưa được ấn định. Những nghiên cứu ban đầu đã suy diễn rằng quyết định chiến tranh của BK đã xuất hiện từ Hội Nghị Công Tác Trung Ương vào khoảng 10 tháng 11 đến 15 tháng 12 năm 1978. Thực tế, trong cuộc họp này đã kêu gọi xem xét một nghị trình cải cách kinh tế trong vòng 10 năm, chấm dứt việc đề cập đến những di sản của Cách Mạng Văn Hóa. Vẫn không rõ ràng là có cuộc thảo luận quan trọng về tình hình ĐD hay không. Tuy thế, cuộc họp đã củng cố vị trí của Đặng trong ban lãnh đạo, cho phép ông ta, dù chỉ là 1 trong 5 phó chủ tịch Đảng Cộng sản TQ (ĐCSTQ) kiêm Tổng tham mưu trưởng quân đội, cũng trở thành người ra quyết định về vấn đề VN.

Trong cuộc họp Quân ủy TW vào dịp tết Nô-en, Đặng đã chính thức đề xuất một cuộc chiến tranh trừng phạt VN. Tất cả những người tham gia cuộc họp bao gồm cả chủ tịch ĐCSTQ Hoa Quốc Phong, theo như báo chí đã đưa tin, cũng ủng hộ đề xuất này. Cũng tại cuộc họp này Đặng đã chỉ định Hứa Thế Hữu (Xu Shiyou) làm chỉ huy chiến dịch ở đông Quảng Tây và Dương Đức Chí (Yang Dezhi), tư lệnh quân khu Vũ Hán, chỉ huy ở miền tây Vân Nam, không dùng Vương Tất Thành (Wang Bicheng), tư lệnh quân khu Côn Minh. Trong một diễn biến liên quan đến việc thay đổi các chỉ huy chiến trường, sau đó hình như Đặng còn cử hai phó tổng tham mưu trưởng của ông ta đến Côn Minh để giám sát việc chuyển giao quyền lực và chuẩn bị chiến tranh. Không có một bộ tư lệnh trung tâm, hai quân khu sẽ tiến hành chiến đấu một cách độc lập không có phối thuộc hoặc hiệp đồng. Cuộc họp cũng nhắc lại rằng cuộc xâm lăng phải được tiến hành chớp nhoáng và tất cả các đơn vị phải rút về sau khi đạt được mục tiêu của chiến dịch.

Các tài liệu hiện nay đều đưa ra giả thiết là có một vài lãnh đạo TQ đã phản đối việc tấn công VN, nhưng các tài liệu đó không thống nhất đó là những lãnh đạo nào và phản đối theo hình thức nào. Khi Đặng đã là kiến trúc sư trưởng của kịch bản thì dường như không hợp lý khi cho rằng ai đó lại có thể thách thức được quyết định của ông ta, một con người đầy uy tín cũng như thâm niên trong đảng. Sự kiểm soát BTTM của Đặng đã cung cấp cho ông ta phương tiện thuận tiện để thiết đặt cỗ máy chiến tranh của TQ vận hành trước khi ban lãnh đạo TW đưa ra một quyết định chính thức. Hành động giống như Mao, Đặng đã tham khảo ý kiến của các đồng sự tin cậy theo cách riêng trước khi ra quyết định và sau đó chỉ thực hiện quyết định khi đã có sự tán thành của BCT. Một trong những đồng sự gần gũi nhất của Đặng là Trần Vân (Chen Yun), một phó chủ tịch khác của ĐCSTQ và là một vệ sỹ lão thành của đảng, con người đã có những đóng góp quan trọng cho quyết định gây ra chiến tranh với VN.

Có một vài mối quan tâm lớn (trong đảng): liệu LX có phản ứng bằng cách tấn công từ phía bắc khiến quân đội TQ phải chiến đấu trên hai mặt trận; liệu LX có nhân cơ hội để trục lợi từ tình hình; thế giới sẽ phản ứng lại thế nào; và liệu chiến tranh với VN có làm trở ngại đến nghị trình mới của TQ là hiện đại hóa nền kinh. Mối lo lớn nhất là phản ứng của LX. Theo các phân tích tình báo của BTTM, Matx-cơ-va sẽ có 3 chiến dịch quân sự đáp trả cuộc xâm lăng: một cuộc đột kích quân sự lớn bao gồm cả tấn công trực diện vào thủ đô BK ; xúi giục các phần tử dân tộc thiểu số có vũ trang đang lưu vong ở LX quay về tấn công vào các tiền đồn TQ ở Tân Cương (Xinjiang) và Nội Mông (Inner Mongolia); hoặc sử dụng các cuộc giao tranh nhỏ gây ra sự căng thẳng biên giới giữa 2 nước. Tuy nhiên, khi mà LX chưa có lực lượng đầy đủ để tiến hành bất cứ các hoạt động quân sự lớn nào chống lại TQ một cách ngay lập tức thì lãnh đạo đảng, đặc biệt là Đặng, đã tin rằng một cuộc chiến tranh vào VN chớp nhoáng, có giới hạn, và mang tính tự vệ sẽ không kích thích sự can thiệp của Matx-cơ-va hay một sự xúc phạm quốc tế nào. Hai cuộc xung đột biên giới trước đó với Ấn Độ (1962) và LX (1969) đã minh chứng cho lập luận này. Ý định về một cuộc chiến tranh nhanh gọn cũng đã thuyết phục được sự phản đối trong nội bộ và biện hộ cho sự lựa chọn chính sách của BK. Tuy nhiên lãnh đạo TQ cũng không lơ là cảnh giác. Họ đã đồng thời ra lệnh cho các đơn vị quân đội ở các quân khu miền bắc và tây bắc vào tư thế sẵn sàng chiến đấu trong trường hợp LX tấn công.

Cuộc họp tết giáng sinh đã hoãn lại thời điểm tấn công. Các nhà phân tích Phương Tây đã tranh cãi rằng BK vẫn còn đắn đo bởi mối lo sợ phản ứng quốc tế. Chuyến đi nằm trong kế hoạch của Đặng đến Mỹ và Nhật đã được thu xếp để “thăm dò dư luận (test the waters).” Tuy nhiên những đồng sự thân cận Đặng đã cho rằng những sự chống đối của quốc tế nếu có cũng không ngăn cản được ông ta vì Đặng chưa đầu hàng bất cứ cái gì một khi ông ta đã định trong đầu. Lãnh đạo TQ cũng rất lo lắng liệu lực lượng của họ có đủ thời gian để chuẩn bị đầy đủ cho cuộc chiến tranh hay không. Binh lính TQ chưa tham gia vào bất cứ cuộc chiến tranh lâu dài nào, trong khi nhiều người trong quân đội không thể hiểu được vì sao cuộc chiến sắp xảy ra lại nhằm vào một đồng minh truyền thống và là một quốc gia láng giềng nhỏ bé. Không lâu sau cuộc họp tết giáng sinh, Đặng đã cử Dương Vĩnh (Yang Yong), tổng tham mưu phó, và Trương Chân (Zhang Zhen), chủ nhiệm tổng cục hậu cần lần lượt đến Vân Nam và Quảng Tây để thị sát điều kiện chiến đấu của bộ đội. Lo sợ binh lính chưa sẵn sàng chiến đấu, Trương đã lập tức đề nghị hoãn cuộc chiến lại một tháng. Sau này ông ta có kể lại rằng Quân ủy TW đã đồng ý để lùi thời gian tấn công lại đến giữa tháng Hai. Dương đã làm một báo cáo trong đó có những đề xuất về kế hoạch cho chiến tranh, để trình bày ngày 22 tháng Giêng tại nhà Đặng trước các lãnh đạo chủ chốt của Quân ủy TW. Có thể trong cuộc họp này, lãnh đạo TQ đã tái khẳng định quyết định chiến tranh của họ và định ra một khung thời gian trong D ngày. Ngày tiếp theo, BTTM tổ chức cuộc họp, tại đây kế hoạch chiến tranh được thông qua lần cuối và quân đội được lệnh sẵn sàng khởi sự vào ngày 12 tháng Hai. Để đề phòng tính hình có thể thoát ra ngoài tầm kiểm soát, ban lãnh đạo TW đã yêu cầu Hứa Thế Hữu phải dừng ngay các chiến dịch quân sự và rút lui ngay quân đội của ông ta sau khi đã chiếm được Lạng Sơn và Cao Bằng là 2 thành phố chính của VN nằm gần biên giới.

Ngày 11 tháng Hai 1979, 2 ngày sau khi Đặng trở về BK từ chuyến đi Mỹ và Nhật, cuộc họp BCT mở rộng đã được triệu tập. Đặng trình bày rõ ràng lý do căn bản để đánh VN, và sau đó mệnh lệnh bắt đầu phát động cuộc chiến tranh VN vào ngày 17 tháng Hai năm 1979 đã được gửi tới các tư lệnh quân khu Quảng Tây và Vân Nam. Đây là ngày mà các thành phần không phải chủ chốt được tham dự lâu. Họ đưa ra các lý lẽ một cách đưa đẩy rằng thời điểm tấn công có thể liên quan mật thiết đến yếu tố thời tiết: vào mùa mưa, thường từ tháng Tư trở đi, nó có thể bất lợi cho việc tiến hành các chiến dịch quân sự, hoặc nếu tấn công sớm quá thì quân đội LX có thể dễ dàng vượt qua những con sông dọc biên giới Trung-Xô khi đó đang còn đóng băng. Đặng và các lãnh tụ khác đã tính toán một cách cẩn thận tất cả các khả năng có thể một khi quân đội của họ đã vượt qua biên giới VN. Họ đã giới hạn phạm vi, thời gian, và không gian cho một cuộc chiến tranh đã được gắn cái tên là “cuộc phản công tự vệ” để cố gắng giảm thiểu những phản ứng tiêu cực từ trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, khi chiến tranh đã nổ ra, Đặng vẫn theo dõi chặt chẽ mọi diễn biến xảy ra, vẫn ban hành những chỉ thị và mệnh lệnh đặc biệt (điều này khác hẳn với phong cách lãnh tụ của Mao).
Chiến lược, mục tiêu và sự chuẩn bị

Ge-ran Xi-gan (Gerald Segal) cho rằng động cơ đầu tiên của TQ khi tấn công VN là nhằm ngăn chặn tham vọng và ý đồ xâm lăng ĐNÁ cùng với mối đe dọa của VN đang nhằm vào an ninh của TQ, lật tẩy ra sự nhu nhược của LX. Nhưng tính toán chính trị đơn giản đã chỉ ra rằng các lãnh đạo TQ đã đặt chính họ vào thế khó khăn để xây dựng một chiến lược trừng phạt VN và họ không bao giờ có cơ hội thành công. Ý đồ đã được tuyên bố của TQ là “dạy cho VN bài học” đã biến mục tiêu hàng đầu của cuộc chiến tranh thành một “hành động trả thù”. Từ đầu, BK đã giới hạn mục đích và chỉ đạo để cuộc chiến không vượt quá giới hạn của một cuộc xung đột biên giới tay đôi. Bộ chỉ huy quân sự ở Quảng Châu và Côn Minh được yêu cầu phải xây dựng các chiến lược tác chiến sao cho không chỉ hoàn thành mục tiêu là trừng phạt mà còn phải giới hạn chiến sự về thời gian lẫn không gian.

Câu hỏi thực tế cho những người lập kế hoạch quân sự TQ là đến chừng mực nào thì mục tiêu dạy cho VN bài học mới đạt được và đo lường được. Phương thức tác chiến thông thường của QGPND luôn luôn tạo nên một áp lực đặc biệt trong vấn đề tiêu diệt sinh lực địch (yousheng liliang). Một trong những truyền thống tác chiến của QGPND là triển khai một lực lượng vượt trội tuyệt đối về số lượng để đảm bảo thắng lợi. Khoảng giữa tháng Giêng 1979 hơn một phần tư quân đội thường trực của QGPND đã được đưa đến biên giới Trung-Việt, tổng cộng khoảng hơn 320,000. Theo kinh nghiệm chiến đấu của mình và dựa trên cách đánh chiến thuật và chiến dịch của QGPND trong quá khứ, Hứa Thế Hữu đã trả lời những yêu cầu chiến tranh của ban lãnh đạo TW bằng một chiến thuật gọi là niudao shaji (dùng dao mổ trâu để cắt tiết một con gà). Nguyên tắc chỉ đạo khi giao chiến có 3 điểm cơ bản: tiến công tập trung vào vị trí quan trọng nhưng không phải điểm mạnh của quân địch; sử dụng lực lượng và hỏa lực áp đảo để đập tan phòng ngự của địch tại những nơi giao chiến; các đơn vị xung kích phải hết sức nhanh chóng thọc sâu và tấn công tất cả các con đường dẫn đến sào huyệt kẻ thù. Theo cách này Hứa tin rằng quân đội của ông ta có thể cắt nhỏ hệ thống phòng thủ của địch thành từng mảnh, đập tan mọi sự kháng cự, và sau đó tiêu diệt hết quân địch.

Theo sự chỉ đạo đó các quân khu Quảng Châu và Côn Minh đã xây dựng lên những kế hoạch tác chiến riêng của họ trong đó nhấn mạnh đến việc tiêu diệt các sư đoàn quân chính quy của VN dọc biên giới Trung-Việt. Chiến tranh có thể chia thành hai giai đoạn. Trong giai đoạn đầu, một chiến dịch hai mũi nhọn sẽ được sử dụng để tấn công Cao Bằng và Lào Cai nhằm bao vây và tiêu diệt các sư đoàn của quân đội VN tại đó. Trong khi đó phát động các cuộc tấn công đồng thời ở Đồng Đăng để đánh lừa HN về mục tiêu chiến tranh của TQ. Sau đó lực lượng QGPND ở Quảng Tây sẽ tập trung tấn công vào Lạng Sơn trong khi các cánh quân bạn ở Vân Nam sẽ giao chiến với sư đoàn quân VN ở Sa Pa. Tổng cộng 8 quân đoàn QGPND sẽ đồng thời tham gia tác chiến, 1 quân đoàn làm lực lượng dự bị.

BK cũng đặt ra ngoài khả năng sử dụng không quân tham chiến. Không quân của QGPND sẽ cam kết dùng 18 trung đoàn và 6 phi đội tăng phái để chuẩn bị hỗ trợ cho các chiến dịch mặt đất. Để tránh leo thang xung đột, Quân ủy TW ra lệnh hạn chế sử dụng không lực bên trong lãnh thổ TQ, trong khi đó lại ra lệnh các đơn vị không quân sẵn sàng yểm hộ cho các chiến dịch dưới đất “nếu cần”, mặc dầu không đưa ra định nghĩa chính thức tình hình thế nào và bao giờ được coi là “cần”. Mệnh lệnh đã quy định rằng bất cứ chiến dịch nào bên ngoài không phận TQ phải được phép của Quân ủy TW. Dựa trên những nguyên tắc này, một chiến lược yêu cầu các đơn vị không quân sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ vùng trời và yểm trợ cho mặt đất. Khi chiến dịch dưới đất bắt đầu, cùng lúc không quân được lệnh xuất kích với tần suất cao có thể, trên không phận biên giới nhằm ngăn chặn không quân VN tham chiến. Nhân viên kiểm soát và điều hành hàng không cũng như các nhóm chỉ huy tác chiến đã được cử đến sở chỉ huy tiền phương của hai quân khu ở Quảng Châu và Côn Minh, các chỉ huy của các đơn vị không quân và một vài đơn vị phục vụ mặt đất cũng sẽ tham gia vào nhiệm vụ tấn công chính.

Từ cuối tháng Mười Hai năm 1978 đến hết tháng Giêng năm 1979 binh lính TQ bị cuốn vào các hoạt động huấn luyện chiến đấu và diễn tập. Cho đến lúc đó, hầu hết bộ đội chỉ tham gia vào sản xuất nông nghiệp trong một thời gian dài, những nỗ lực điên rồ vào giờ phút cận kề như vậy, dù là có ích, chắc chắn cũng không thể đủ được. Huấn luyện được tập trung nhiều vào những kỹ năng cơ bản của người lính như bắn súng, ném lựu đạn. Có một vài đơn vị có khả năng thì tiến hành bất kỳ huấn luyện có ý nghĩa nào về chiến thuật hoặc diễn tập cấp trung đoàn hoặc sư đoàn. Nhiều sỹ quan báo cáo rằng họ không thể đảm bảo khả năng tác chiến với binh sỹ của mình. Cuối cùng, các đơn vị bộ đội của QGPND được chỉ định tham gia vào cuộc chiến tranh cũng được huấn luyện một cách sơ sài và không đầy đủ cho một cuộc chiến tranh hiện đại nhằm vào quân đội VN, những người đã có 25 năm kinh nghiệm chiến đấu trước khi có cuộc chiến tranh này, và điều đó đã không được tính đến.

Mặc dầu nhu cầu huấn luyện là cấp bách, nhưng QGPND vẫn tiếp tục với truyền thống quân sự của mình là sử dụng học thuyết chính trị để nâng cao tinh thần và để cải thiện hiệu suất chiến đấu. Cỗ máy tuyên truyền đã được thiết lập để thuyết phục binh lính rằng quyết định của ban lãnh đạo TW là cần thiết và đúng đắn. VN đã thay đổi một cách xấu xa trở thành “Cuba ở phương đông”, tên “kẻ côn đồ ở châu Á” và “chó săn của LX,” đang cố theo đuổi tham vọng bành trướng. Chủ thuyết chính trị của Mác, mặc dầu được cả hai nước suy tụng cũng không ngăn cản được việc TQ phát động một cuộc chiến tranh tự vệ chống lại quốc gia làng giềng nhỏ bé một khi quyền lợi dân tộc tối cao bị đe dọa. Các bài giảng, các cuộc họp quy tội VN và các bằng chứng bằng hiện vật cũng như tranh ảnh được trưng bày nhằm làm cho thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước và lòng căm thù kể địch. Ít nhất người ta cũng đã đưa ra một cách giải thích nghe có vẻ có lý cho những người lính bình thường, ít được học hành về nguyên nhân tại sao lại cần phát động cuộc tấn công quân sự vào VN, một đất nước từ lâu đã là anh em, đồng chí.

Đánh giá cuộc chiến tranh của TQ với VN

Cuộc chiến tranh VN do TQ tiến hành năm 1979 là một hoạt động quân sự lớn nhất mà QGPND đã khởi xướng kể từ khi chiến tranh Triều Tiên. Dựa trên chiến lược của Mao là “trong mỗi trận đánh, tập trung một lực lượng tuyệt đối vượt trội so với kẻ thù,” BK đã triển khai chín quân đoàn chính quy cùng với các đơn vị đặc biệt và địa phương, tạo nên một đội quân hơn 300.000, tiến hành cuộc chiến tranh trừng phạt VN trong một tháng. Các đơn vị không quân chiến đấu đã xuất kích 8.500 phi vụ tuần tra vùng trời, trong khi đó các đơn vị vận tải và trực thăng đã xuất kích 228 lần làm nhiệm vụ không vận; Hải quân cử một lực lượng đặc nhiệm (bao gồm hai tàu khu trục tên lửa và ba hải đội tàu trang bị tên lửa và ngư lôi tấn công nhanh) ra đảo Hoàng Sa (Xisha) nhằm đối phó với sự can thiệp của hải quân LX. Ngoài ra, Các tỉnh Quảng Tây và Vân Nam còn huy động hàng chục ngàn dân quân và dân công để hỗ trợ các chiến dịch quân sự. Trong thời gian chiến tranh, quân TQ đã chiếm ba thị xã của VN và hơn một chục thành phố nhỏ và thị trấn dọc biên giới, họ tuyên bố đã giết và làm bị thương 57.000 bộ đội VN, đánh thiệt hại nặng bốn sư đoàn quân chính quy và mười trung đoàn trực thuộc khác, cùng với việc chiếm một lượng lớn vũ khí. BK khẳng định rằng cuộc chiến chống VN 1979 đã kết thúc với của thắng lợi thuộc về TQ.

Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu ngày nay đều thừa nhận rằng quân VN “đã thực sự tốt hơn” quân TQ trên chiến trường do tác chiến của QGPND có vấn đề và thương vong qua nặng như đã biết. HN cho rằng chỉ có dân quân và các lực lượng địa phương đã tham gia vào cuộc xung đột, và không áp dụng một chiến thuật phòng thủ nào nhưng đã tấn công liên tục chống lại quân xâm lược TQ. Họ bị mất Lạng Sơn và một số thành phố khác chỉ sau khi đã gây thương vong cho quân TQ. Đài HN vào thời gian đó đã thông báo rằng VN đã tiêu diệt và làm bị thương 42.000 quân TQ. Có một vài tài liệu của VN có giá trị cho các nhà nghiên cứu khi tìm hiểu về hiệu suất chiến đấu và thất bại của họ trong cuộc xung đột, trái ngược hoàn toàn với thông tin được đăng tải bởi các cá nhân trên mạng khi nói về con số tham gia thực tế và thương vong nặng nề của quân chính quy VN. Đánh giá lại chiến tranh của TQ với VN chỉ duy nhất dựa trên nguồn từ TQ là phiến diện nhưng có thể phải giải thích.

Một phương pháp đánh giá cái được cái mất của TQ là tập trung vào thương vong. Lúc đầu BK thừa nhận là có 20.000 binh sĩ TQ bị chết hoặc bị thương trong cuộc xung đột biên giới với VN. Một xu hướng mang tính học thuật hiện nay nghiêng về con số ước tính khoảng 25.000 QGPND thiệt mạng trong khi làm nhiệm vụ và 37.000 người khác bị thương. Gần đây có nguồn từ TQ đã phân loại thiệt hại của QGPND là 6.900 người chết và 15.000 người bị thương, tổng cộng thương vong là 21.900 thương vong trong một cuộc chiến với hơn 300.000 lính tham chiến. Trong bất cứ trường hợp nào thì thương vong của TQ trong cuộc chiến tranh ngắn như vậy là quá cao, điều đó cho thấy một trong những đặc tính cố hữu trong kiểu chiến thuật và chiến dịch của QGPND là: sự sẵn lòng chấp nhận tổn thất nặng nề khi thấy đó là điều cần thiết. Lãnh đạo TQ xem xét thương vong là một tiêu chí tương đối không quan trọng khi đánh giá thành công trong quân sự miễn sao họ tin rằng tình hình chiến lược tổng thể nằm trong tay họ và điều khiển được.

Theo một quan điểm của TQ, cuộc chiến 1979 với VN là một phản ứng quân sự có tính toán nhằm vào đường lối đối ngoại tồi tệ với TQ của VN và sự bành chướng của nó tại Đông Nam Á giống như tham vọng toàn cầu của LX. Mặc dù chiến dịch này bộc lộ nhiều điểm yếu của QGPND trong học thuyết hiện đại và chiến thuật, từ khởi đầu đến kết thúc, nhưng TQ đã nhanh chóng nắm giữ thế chủ động và nhịp độ của cuộc xung đột. BK gây bất ngờ cho HN không chỉ bởi việc tiến hành cuộc tấn công lớn, mà còn ở sự rút lui nhanh chóng của nó và không bị sa lầy ở VN. Sự trông cậy của VN vào LX trong vấn đề an ninh rõ ràng là một bài học đáng thất vọng. Đánh giá về phản ứng của LX đối với cuộc xâm lược cũng cho rằng đây là một thành công khi Matx-cơ-va bộc lộ sự bất lực và thiếu thiện chí đối với VN. Cuối cùng điều đã trở nên quan trọng hơn cả là chiến tranh 1979 là sự khởi đầu chính sách của BK làm “chảy máu” VN trong một nỗ lực ngăn chăn sự bành trướng của HN ra Đông Nam Á. Sự rút quân VN khỏi CPC sau cuộc tấn công của TQ là điều mong muốn của lãnh đạo của TQ, nhưng họ không bao giờ biết đến một cuộc triệt thoái ngay lập tức. TQ vẫn thi hành một lựa chọn chiến lược là duy trì áp lực quân sự lên VN kể cả sự đe dọa liên tục bằng lời nói về một cuộc tấn công thứ hai, và đôi khi tăng cường pháo binh bắn phá và những trận đánh lớn ở biên giới trong hầu hết thập kỷ 1980. Một nghiên cứu đầu thập niên 1990 đã kết luận: “Cuộc chiến tranh đã đạt được thành công nhất khi nó được xem như một chiến thuật trong chiến lược chiến tranh tiêu hao kéo dài của TQ”.

Tương tự như vậy, cuộc chiến tranh không để lại hậu quả đáng kể cho TQ. Sử dụng vũ lực quân sự chống lại VN đã làm dấy lên những nghi ngờ của In-đô-nê-xia và Mã lai, những nước luôn cảnh giác với ảnh hưởng của TQ trong khu vực. Sự chiếm đóng của VN ở Campuchia đã đe dọa Thái Lan, khiến làn sóng chống đối VN của các nước ASEAN không ngừng tăng. Về mối quan hệ Trung-Mỹ, cuộc xâm lược trừng phạt của TQ thể hiện thành công đặc biệt. Oa-sinh-tơn vừa công khai lên án cả cuộc xâm lược của VN vào CPC và cuộc xâm lược của TQ vào VN lại vừa chia sẻ mối quan tâm của TQ trong việc ngăn chặn ảnh hưởng của LX tại Đông Nam Á. Ý chí sẵn sàng sử dụng vũ lực của Bắc Kinh, bất chấp gánh chịu thương vong, đã biến TQ thành “một bức tường ngăn chặn có giá trị” chủ nghĩa bành trướng Xô-Việt; Oa-sinh-tơn vẫn tiếp tục tìm kiếm một mối quan hệ chặt chẽ với TQ để làm cân bằng với LX.

Ban lãnh đạo VN dường như không bao giờ hiểu hành động chiến lược của TQ và mục tiêu chiến tranh, nhưng lại khăng khăng quan điểm cho rằng cuộc xâm lược năm 1979 đã trở thành khúc dạo đầu của một kế hoạch xâm lược dài hạn của BK vào chủ quyền và nền độc lập của VN. Sau khi TQ tuyên bố rút quân ngày 5 tháng Ba, HN kêu gọi tổng động viên toàn quốc cho chiến tranh, thúc đẩy việc xây dựng các vị trí phòng thủ trong và xung quanh HN. Đến cuối tháng Năm, QGPND đã phục hồi về trạng thái bình thường. Tuy nhiên, VN tiếp tục đề phòng, duy trì số lượng lớn của quân đội dọc theo biên giới phía Bắc đối diện với TQ, tại một thời điểm mà nền kinh tế của nó đang “ở trong một tình trạng tồi tệ hơn bất kỳ thời gian nào kể từ năm 1975”. Kết quả là, HN phải nỗ lực để chống lại hai cuộc chiến tranh đồng thời, một ở CPC và một ở biên giới phía Bắc, dẫn đến một chi phí rất lớn của xã hội và nền kinh tế quốc gia, thu hút mọi nỗ lực của HN đang dành cho việc hiện đại hóa nền kinh tế, và, quan trọng hơn, làm giảm tham vọng về địa chính trị của nó. Tuy nhiên, ban lãnh đạo VN không hề nhận ra tính chất nghiêm trọng của tình hình, tiếp tục sự phụ thuộc của đất nước mình vào Liên bang Xô viết cho đến khi nó sụp đổ vào năm 1991. Nếu có bất kỳ bài học mà người VN cần rút ra từ cuộc chiến 1979 với TQ, thì đó là VN, như một vị tướng VN sau này đã nhận xét, “phải học cách sống chung với người hàng xóm to lớn”.

Liên quan đến vấn đề tại sao TQ phải lo lắng khi sử dụng một lực lượng đã được chuẩn sẵn để chống lại VN vào năm 1979, các phân tích ở đây cũng phù hợp với khẳng định của các nghiên cứu khác là sự đe dọa đã được nhận thức đầy đủ về tính toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền đã đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với Bắc Kinh, đủ để xác định trách nhiệm cho QGPND hoàn thành sứ mạng quốc phòng chống mọi cuộc tấn công. Tranh chấp lãnh thổ và căng thẳng biên giới có vẻ như các yếu tố kích thích để thúc đẩy BK xem xét việc sử dụng vũ lực chống lại láng giềng phía nam của họ, trong khi đó sự cuồng phát của chủ nghĩa dân tộc đầy cảm tính đã hướng tới việc củng cố thêm tinh thần Trung Hoa, theo đó cần phải có một sự trừng phạt nào đó với một đồng minh cũ đã phản bội quay lưng lại với TQ. Tình cảm này cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc mang lại một sự đồng thuận rộng rãi giữa các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự của TQ để hỗ trợ Đặng, kẻ đóng vai trò trung tâm trong việc đưa ra các quyết định triển khai quân sự chống lại VN. Về các vấn đề chủ quyền lãnh thổ, điều luôn luôn làm nảy sinh những xúc cảm thái quá của người TQ, quan điểm quân sự dường như đã trở thành yếu tố kiên quyết trong các quyết định để khởi đầu cho mọi thù địch hiện nay. Hội nghị cán bộ tháng Chín, từ việc cung cấp các khuyến cáo cho ban lãnh đạo trung ương để đối phó với tình hình quan hệ xấu đi giữa TQ và VN, đã là điểm khởi đầu cho một hoạt động quân sự lớn. Các phân tích quân sự về phản ứng của LX cũng giúp làm sáng tỏ những lo ngại về rủi ro, nếu có tồn tại. Tuy nhiên, quân đội đã phải hy sinh chính họ cho tham vọng của ban lãnh đạo trung ương. Một khi quyết định đã được đưa ra để thực hiện cuộc xâm lăng trừng phạt VN, các tướng lĩnh đã hăm hở được thực hiện nhiệm vụ của mình với sự thích thú triển khai lực lượng tối đa.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét