TTST BND: Truyện của Vũ Tuấn Hoàng đã được đăng trên hoinhavanvietnam.vn từ 04/4/2009 (có thể bấm vào đường dẫn trên để xem toàn bộ trên trang gốc), gồm 43 phần.
(Xem lại: Phần 1 - 10)
11
...Sau thời gian phục vụ trên công trường thanh niên cộng sản, xây dựng tuyến đường sắt Baican-Amua, Vera được cử đi học đại học, khoa luật tại K. Gia đình cô sống chật chội trong căn hộ một buồng trên phố Bairon, nằm gần ngoại ô thành phố. Việc cô được phân công về làm tại phòng cảnh sát hình sự của quận Kominter sau khi tốt nghiệp đã hứa hẹn một tương lai khá sáng sủa. Cô gái có đôi mắt xanh và mái tóc vàng kiều diễm được vào biên chế ngay. Cô lại còn học thêm một bằng đại học tại chức nữa của ngành công an và ra làm thẩm phán. Chẳng bao lâu nữa, cô sẽ nhận được quân hàm trung úy... Một nơi ở mới rộng rãi, một công việc đầy thú vị mang đậm màu sắc quyến rũ ly kỳ kiểu Sholokhome cộng với đồng lương kha khá đang chờ đón. Năm 1970, mùa đông đến sớm hơn, đầu tháng mười một mà tuyết đã phủ trắng xóa đường phố. Vera khoan khoái hít thật sâu cái không khí lạnh, khô, khỏe khoắn thường chỉ có khi tuyết mới rơi. Những bông tuyết nhỏ xoay tít đáp khẽ lên chiếc mũ lông cáo xinh xắn trên mái tóc vàng óng ả của cô. Cô vui vì hôm nay là lần đầu tiên cô tự mua cho mình một chiếc mũ mới mà cô vẫn mong ước bấy lâu. Niềm vui nâng đôi chân nhỏ nhắn của cô bước thoăn thoắt trên bậc cầu thang dẫn lên tầng ba. Qua khe cửa hé mở của phòng làm việc, cô nhận ra giọng nói ồm ồm của thiếu tá Vitali, trưởng phòng của cô, đang nói chuyện qua điện thoại. “Chắc có việc gì gấp nên ông mới đến sớm như vậy”, cô chợt nghĩ trong đầu và đẩy cửa bước vào. Ông Vitali quay lại nhìn cô và lấy tay ra hiệu bảo cô ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh. Cô vừa treo áo và mũ vào tủ xong thì cũng là lúc cuộc nói chuyện điện thoại của ông chấm dứt. Ông xoa xoa hai bàn tay vào nhau và chống tay lên cằm ra chiều suy nghĩ. Trên bàn trước mặt ông là một tập hồ sơ dày cộp:
- Tôi suy nghĩ mãi và quyết định giao cho cô lấy khẩu cung của phạm nhân này. Cô đọc kỹ hồ sơ và tiến hành làm ngay cho tôi - nói đến đây, ông đẩy tập hồ sơ về phía Vera. - Bên tòa án người ta vừa gọi điện sang giục. Tôi đã hứa trong vòng một tuần sẽ hoàn tất hồ sơ, cô thấy thế nào?
- Quả là cũng hơi gấp, nhưng tôi sẽ cố gắng.
Thiếu tá Vitali không nói thêm một câu nào, đứng dậy và bước ra khỏi phòng. Ngay chính lúc đó Vera không thể biết được rằng cuộc đời của cô đang đứng trước một bước ngoặt lớn mang tính định mệnh.
Vera chợt giật mình khi nghe thấy những tiếng chân bước lộp cộp ngoài hành lang. Mặc dù đây không phải là lần đầu tiên tiếp xúc với những tội phạm đặc biệt, song không hiểu sao cô vẫn có một linh cảm không bình thường. Tiếng gõ cửa vang lên khô khốc.
- Mời vào! - Vera chỉnh lại tư thế ngồi sau chiếc bàn làm việc màu nâu kê cạnh cửa sổ.
Cánh cửa bật mở. Thoạt tiên là người lính cảnh vệ to cao đeo súng tiểu liên bước vào. Anh ta giơ tay lên chào cô và bước tới đặt lên bàn một tờ giấy. Cô vừa ký nhận vào tờ giấy vừa nói với anh ta:
- Cho phạm nhân vào!
Đúng lúc cô ngẩng lên và chìa tay ra để trả lại tờ biên lai cho anh lính áp giải thì trong khung cửa xuất hiện kẻ phạm tội dưới bộ dạng một thanh niên cao dong dỏng, trắng trẻo thư sinh. Ánh mắt hai người gặp nhau. Vera giật mình và cảm thấy như có một luồng điện chạy xuyên qua người, gai cả sống lưng. Cô tuột tay làm rơi tờ giấy xuống sàn nhà. Người lính áp giải cúi xuống nhặt rồi hất đầu về phía chiếc ghế kê sát tường:
- Ngồi xuống kia!
- Mở khóa tay cho anh ta! - cô ra lệnh và cảm thấy không hiểu sao từ giây phút phạm nhân bước vào phòng, tâm trạng cô đột nhiên thay đổi một cách khó hiểu. Cô cố tình tránh ánh mắt nhìn thẳng của anh ta bằng cách lật giở những trang hồ sơ để trên bàn. Anh lính áp tải tra chìa khóa vào chiếc còng số tám và giải phóng đôi tay cho phạm nhân. Chắc chiếc còng quá nhỏ nên phạm nhân cứ xoa vết hằn đỏ ở cổ tay mãi. Bàn tay với những ngón dài thon mảnh, nhạy cảm như tay con gái đập vào mắt cô.
“Người có bàn tay kia mà lại là một tay ăn trộm cao thủ, thật không thể tin được!” Vera nghĩ thầm trong bụng và có cảm giác rằng mình đã gặp chàng trai mắt xanh, tóc đen này ở đâu đó rồi.
Cánh cửa sau lưng người lính áp giải đóng lại. Trong phòng chỉ còn lại hai người. Một người đàn ông và một người phụ nữ. Họ sẽ còn phải làm việc với nhau như vậy hàng ngày, có thể là một tuần hoặc còn lâu hơn nữa. Tất cả những gì thuộc về cảm tính ban đầu đều qua đi, nhường chỗ cho những cuộc hỏi cung, biên bản, các xét nghiệm nghiệp vụ... Không còn thời gian cho những suy nghĩ lãng mạn. Xergay năm đó hai mươi tám tuổi, sinh trưởng tại Odessa, có một cá tính hoàn toàn trái ngược với Vera. Trong vòng bảy năm, anh ta đã phải ngồi tù hai lần, lần cuối cùng với án ba năm tù cải tạo chế độ đặc biệt. Là một người chuộng các cảm giác mạnh, anh đã đào tạo bản thân trở thành một tay đào tường khoét vách thuộc loại cao thủ. Một đặc điểm riêng là không bao giờ “đập hộp” những căn hộ thấp dưới tầng năm. Việc hỏi cung kéo dài gần một tháng trời. Chính vào thời điểm đó, mẹ của Vera lại ốm nặng. Người ta mổ cho bà lần thứ hai. Vừa làm việc, Vera vừa trông mẹ ốm trong bệnh viện, bản thân lại bị những cơn đau dạ dày từ hồi sống ở Xibiri tái phát hành hạ. Vera gầy đi gần chục cân, hai mắt thâm quầng. Song, không một ai trong giới lãnh đạo để mắt xem chuyện gì đang xảy ra với nhân viên dưới quyền mình. Còn Xergay, trong những lần hỏi cung thường kỳ, rất ân cần thăm hỏi: “Hình như chị có chuyện không vui thì phải, trông chị xanh xao quá?” Tại thời điểm này, mối quan hệ giữa bị cáo và thẩm phán đã chuyển sang tình bạn bè thân hữu. Xergay bộc bạch rằng, lần đầu tiên ăn cắp là để mua thuốc cho người yêu đang nằm trên bàn mổ. Sau khi anh bị bắt và ra tù thì cô ấy chết. Khi đó anh mới mười tám tuổi. Từ đó ăn cắp đã thành quen tay. Từ lâu anh đã định bỏ nghề, nhất là khi bị bắt lại lần thứ hai, anh đã ao ước được ăn một viên đạn để không phải bị ngồi tù. Xergay rất tốt bụng và cởi mở. Cung cách đối xử của anh với bà mẹ mỗi khi mang đồ tiếp tế vào khiến Vera cảm phục và xúc động. Đến một lần, sau khi mẹ Xergay đưa đồ ăn vào cho con về, người lính áp tải xồng xộc chạy vào trong phòng cô và chìa ra một băng giấy xé từ mép tờ báo hàng ngày, được cuộn lại cẩn thận như một điếu thuốc con con. “Hắn định tuồn lá thư này cho bà mẹ, tôi phát hiện được và thu lại cho chị đây”. Vera cảm ơn tinh thần trách nhiệm của anh lính và bỏ dở việc đánh máy biên bản, bóc lá thư ra đọc. Càng đọc, hai má cô càng ửng đỏ lên, nhất là đến đoạn: “Con đã phải lòng một cô gái, song cô ấy hoàn toàn khác con. Con cũng không hy vọng là cô ấy hiểu con. Song, con sẽ làm mọi cách để chinh phục được cô ấy. Giữa chúng con là một khoảng cách lớn và phía trước là một tương lai không rõ ràng. Không phải bất cứ người phụ nữ nào cũng dám hy sinh khi trói buộc số phận mình với một tên tù. Cô ấy tên là Vera, người hiện đang thẩm vấn con”. Vera ngồi thừ ra một lúc lâu và trong thâm tâm cô cũng tự thú nhận với chính mình rằng, trái tim cô đã thuộc về kẻ phạm tội từ bao giờ mà cô không hay. Cô không nói ra nhưng chính cô cũng nóng lòng chờ đợi đến giờ thẩm vấn như đến cuộc hò hẹn. Trước đó cô đã kín đáo trang điểm lại khuôn mặt cũng như quần áo sau cánh tủ đựng tài liệu ở góc phòng làm việc. Vera định đốt lá thư đó đi nhưng không biết nghĩ sao, cô lại dụi que diêm đã cháy được một nửa vào chiếc gạt tàn trên bàn, nhét mẩu thư xuống dưới lớp lót của hộp trang điểm.
Tháng mười một, cây cối đã trút gần hết những chiếc lá vàng, chỉ còn để lại những cành cây khẳng khiu, đâm tua tủa lên bầu trời xanh nhạt của thành phố được điểm xuyết bằng những gợn mây trắng hình đàn cừu trên thảo nguyên. Vera chuyển toàn bộ hồ sơ sang bên tòa án. Lúc tạm biệt, cô đã để lại địa chỉ nhà mình ở cho can phạm.Ngay trong bức thư đầu tiên, Xergay đã yêu cầu cô hãy mở loa truyền thanh đúng vào ngày sinh nhật của cô, mùng tám tháng mười hai. Hôm đó, cô đang ở trong bệnh viện trông nom mẹ. Cô lúi húi cắt quả táo trên chiếc bàn con duy nhất trong căn phòng nơi mẹ cô nằm, bày ít đồ hoa quả, bánh ngọt và chai rượu sâm banh. Lễ sinh nhật thật khiêm nhường. Đột nhiên mẹ cô kêu lên thất thanh và chỉ tay về phía chiếc loa truyền thanh treo ở trên tường: “Vêrotrka, bản nhạc đề tặng con nhân ngày sinh nhật kìa”. Bà vừa dứt lời thì tiếng vĩ cầm vút lên, tràn ngập trong không gian yên ắng của căn phòng trắng toát. Vera xúc động quá đánh rơi cả con dao đang cầm trên tay xuống nền nhà. Cô lặng lẽ đi đến bên mẹ và ngồi xuống, vòng tay ôm lấy thân hình gầy gò của bà. Hai mẹ con yên lặng lắng nghe như nuốt lấy từng âm thanh huyền diệu đang nhảy nhót lung linh cùng với những tia nắng rực rỡ trên nền tuyết trắng tinh ngoài cửa sổ. Ánh mắt mệt mỏi của người mẹ bỗng vụt trở nên tinh anh, làn da trắng xanh như hồng lại và một nụ cười sung sướng, hạnh phúc nở trên đôi môi khô héo của bà. Bản nhạc kết thúc mà hai mẹ con vẫn ngồi bất động một lúc để lắng nghe lời giới thiệu của người phát thanh viên: “Các bạn vừa thưởng thức nhạc phẩm tự sáng tác và trình bày của tù nhân Xergay Nikolaievich, trại giam số 7 nhà tù Khalodna Gara nhân ngày sinh nhật của người yêu”. Vera giật mình về lời giới thiệu đồng thời cũng là lời tỏ tình của Xergay qua đài phát thanh thành phố. Cô lặng lẽ lau những giọt nước mắt hạnh phúc đang trào ra trên má. Cô quay sang nhìn khuôn mặt mẹ, cũng thấy những giọt nước mắt lặng lẽ chảy trên làn da nhăn nheo của bà. Mãi một lúc sau, bà khẽ lắp bắp: “Tùy con quyết định lấy hạnh phúc của đời mình”.
Sang năm mới, anh viết thư ngỏ lời cầu hôn cô. Đến cuối tháng giêng, vụ án lại mở ra những hướng điều tra mới. Cần phải tái hiện lại hiện trường. Trong câu chuyện về gia đình mình, Vera vô tình để lộ cho anh biết chuyện bà mẹ ốm nặng, cần một khoản tiền để tiến hành phẫu thuật. Xergay yêu cầu thẩm phán cho phép mình được về thăm nhà. Vera không thể từ chối được. Sau đó còn một cuộc gặp gỡ nữa được xem như một món quà sinh nhật của Xergay. Hai người ở lại trong ký túc xá của trường đại học sư phạm nơi mẹ anh làm kế toán. Bà mẹ cho con trai ăn uống xong thì bỏ đi để đôi uyên ương ở lại với nhau. Tất nhiên, nữ thẩm phán hiểu rằng cô đang dung túng cho một tội lỗi. Song, cô còn trẻ, cô không thể chiến thắng được bản thân mình.
Thế rồi, đến một hôm như thường lệ, hai người gặp nhau ở ký túc xá, Xergay nhờ nữ thẩm phán cắt tóc hộ. Sau đó, anh bước ra ngoài sân để rũ chiếc khăn phủ lên vai dính đầy tóc con, rồi... không thấy quay lại nữa. Một giờ sau, cô gái cả tin mới hiểu rằng, người yêu đã biến mất. Những người bạn đồng nghiệp sau khi biết được tin này rất lấy làm kinh ngạc. Cuối cùng, người ta quyết định bắt nữ thẩm phán để làm sáng tỏ tình hình. Vera phải ngồi mười lăm ngày trong xà lim dùng cho hai người. Trong đó nhốt cả những nhân viên cảnh sát bị mắc các tội khác nhau. Họ ở tầng trên. Nhiều hôm, họ chuyển cho cô những túi thực phẩm căng đầy. Người ta còn đưa thêm vào phòng giam một bà giám đốc trại thiếu niên nhi đồng vì tội thâm thụt công quỹ và một nhân viên nhà băng. Chính thời điểm này, cô biết mình đã có mang. Vera được đưa khỏi trại giam ba tháng sau đó. Một ngày nắng đẹp, cỏ cây đã nhú mầm xanh biếc. Những người qua đường ngạc nhiên quay lại nhìn cô gái vẫn khoác trên người bộ đồ mùa đông nặng trịch. Cô không còn đến một xu trong túi. Mãi sau cô mới lê về được đến nhà, mệt mỏi rã rời, người hôi hám mùi nhà tù. Vừa nhìn thấy mẹ, cô không kìm nổi nước mắt, bật lên những tiếng nức nở như thời nhỏ bị đòn oan. Một tuần sau khi Vera được phóng thích, mẹ cô trút hơi thở cuối cùng ở tuổi năm mươi hai. Xergay bị bắt ngay sau đó một tuần vì bị con nợ của mình báo cho công an khu vực. Gã bạn thân kia bảo Xergay ngồi chờ ở nhà để đi lấy tiền và một lúc sau thì công an ập đến. Đối với nữ thẩm phán, bản án được khoan dung nhân đạo: ba năm tù treo. Kẻ phạm tội bỏ trốn: năm năm tù cải tạo đặc biệt. Hai người quyết định chính thức hóa mối quan hệ ngay khi Vera tới thăm anh lần đầu tiên trong trại cải tạo. Cô viết lên mảnh giấy mấy chữ nguệch ngoạc: “Em đang có mang” và đẩy về phía Xergay ngồi đối diện. Anh chộp ngay lấy mảnh giấy đó và chồm cả người qua bàn để ôm hôn Vera, mặc cho người nữ quản giáo bước lại gần dùng chiếc dùi cui đập khẽ lên vai anh mấy cái nhắc nhở.
Đám cưới diễn ra ngay trong nhà tù, không có áo voan trắng. Nhẫn cưới chỉ làm bằng bạc rất đơn giản. Cứ ba tháng một lần, Vera lại được vào thăm chồng ba ngày liền. Xergay vừa làm thợ vừa biểu diễn đàn violon vào các dịp lễ tết trong nhà tù. Anh có đôi bàn tay vàng nên có thể kiếm được chút tiền để trang trải phòng khách sạn trong nhà tù. Anh lao động tốt và được giảm án. Đứa con đầu tiên và duy nhất của hai người chào đời. Ngay trong đêm đó, dưới ánh đèn tù mù của phòng giam chật chội, trên chiếc giường tầng hôi hám vì rận rệp, Xergay đã sáng tác một bản nhạc dành cho violon tuyệt vời đến mức anh được bộ văn hóa can thiệp để ra tù sớm và được nhận vào nhạc viện mà không cần qua thi tuyển...
Em đã bập bẹ kéo những nốt nhạc đầu tiên trên chính cây đàn vĩ cầm cũ kỹ của ông Xergay để lại. Em không quên được những giọt nước mắt cảm động làm nhòa đi đôi mắt trẻ thơ của em lúc đó, khi nghe lại băng ghi âm bản nhạc ông già đã sáng tác và biểu diễn trong nhà tù. Đúng hơn là những giọt nước mắt sung sướng, biết ơn của một đứa trẻ cô đơn, dễ bị tổn thương đã tìm được một chỗ dựa tinh thần chắc chắn. Âm nhạc của ông tràn ngập tâm hồn em như những dòng nước mát chảy về lênh láng trên những mảnh đất khô cằn nứt nẻ vì cảnh côi cút, tủi thân. Em gục đầu vào ngực bà Vera và thốt lên: “Cháu sẽ chơi đàn như ông Xergay, bà ạ”.
Những thanh củi cháy đỏ trong lò sưởi đã tàn lụi dần phủ một lớp tro dày, nhưng trong lòng em có một ngọn lửa khác bắt đầu được nhen nhúm lên giữa một đêm đông lạnh giá, những nhũ tuyết rủ xuống long lanh ngoài cửa sổ và đâu đó vọng tới dăm ba tiếng còi tàu lạc lõng, mơ hồ. Một bông tuyết rơi ngập ngừng, lơ lửng trong khoảng sáng của ánh đèn hắt qua cửa sổ ra ngoài khoảng sân lầy lội...
12
Trọng đến K. vào một chiều mưa sụt sùi. Mùa thu cố níu giữ những chiếc lá vàng cuối cùng trên trên các cành cây khẳng khiu và cả những dải băng màu vàng, màu xanh trên các cột điện, các tấm biển quảng cáo, dấu vết còn lại của cuộc cách mạng Cam rung chuyển thế giới. Vợ anh không đi cùng được vì ngại tình hình chính trị bên này chưa ổn định. Trên chuyến bay sang Ucraina, anh đã làm quen với ông Mai Tất Hiếu, giáo sư, bác sĩ đông y của Viện y học cổ truyền Nguyễn Bỉnh Khiêm. Họ nhanh chóng trở thành đôi bạn đường hợp gu vì cùng điểm đến là K. và cả hai cùng đi một mình. Ông giáo sư người thấp đậm, chắc nịch và ăn uống rất ồn ào chứng tỏ bộ máy tiêu hóa còn hoạt động tốt. Ông thích anh bạn đường đoán tuổi ông và rất lấy làm khoái chí khi Trọng đưa ra một con số kém hơn thực tế gần chục tuổi.
- Chắc bác có bài thuốc “nam dược thần hiệu” để kéo dài tuổi trẻ nên mới giữ được phong độ như thế này.
- Điều độ, bí quyết là ở chỗ đó - ông Hiếu cất tiếng cười sang sảng át cả tiếng động cơ ầm ì, khiến mấy vị hành khách ngồi gần quay cả lại nhìn.
Trong khoảng thời gian từ Bangkok đến Matxcova, Trọng đã kịp biết được khá nhiều về người bạn đường vui tính và hay chuyện của mình. Phải thừa nhận ông Hiếu có tài trong khoa ăn nói. Ông biết cách lôi cuốn người nghe bằng những ví dụ cụ thể như: “Tôi tận mắt chứng kiến...” hoặc “chuyện xảy ra với một người thân của tôi vào ngày này, tháng này...”. Ông thì thầm vào tai Trọng về mục đích chuyến đi sang K. của mình với lời dặn dò cẩn thận kèm một cái vỗ vai thân mật: “Cậu không được kể cho ai đấy nhé, tuyệt mật. Tôi đi vì nể quá thôi, người ta cứ mời đích danh mình mãi, chứ đi nước ngoài bây giờ khổ hơn ở nhà chứ báu gì”. Ông còn chìa cuốn hộ chiếu cho Trọng xem những con dấu đóng chi chít và nói bằng một giọng không giấu vẻ tự hào: “Chỉ còn hai cực của trái đất là tôi chưa đến”. Qua câu chuyện của ông thì trong giới y học nước nhà chẳng có ai là đáng để tôn làm sư phụ. Ông có cái tài là đưa ra rất nhanh và chính xác những tật xấu hay khuyết điểm của một nhân vật nổi tiếng nào đó trong giới, nhất là những chuyện dính dáng đến tình cảm lãng mạn, bồ bịch. Và, ngoài nghề y ra, hình như trên thế giới không còn tồn tại một thứ nghề nghiệp nào khác đáng để tôn trọng. Bệnh nhân của ông toàn là những nhân vật nổi tiếng trong chính giới, với người nào ông cũng có một cách đặt vấn đề hết sức tự nhiên, đại loại như: “Hôm thứ năm vừa rồi, tôi chữa cho bộ trưởng B. ngay tại biệt thự... hoặc vợ của đại sứ A mắc một căn bệnh thật không thể ngờ được...” Do tiếp xúc rộng nên Trọng không lạ gì kiểu người như vậy. Một mặt, anh vẫn cứ để tai lắng nghe những lời thao thao bất tuyệt của ông, thỉnh thoảng lại kèm theo những cái gật đầu vẻ đồng tình tán thưởng, nhưng mặt khác anh vẫn không dứt được những suy nghĩ về các vấn đề cần phải đạt được trong chuyến đi gấp gáp này. Số phận của Tổng công ty còn hay mất phụ thuộc vào vận may rủi đang chờ anh phía trước. Anh ngả đầu ra ghế, mắt hơi lim dim. Khung cảnh của mây trời xung quanh cũng làm cho anh nhẹ nhõm đi đôi chút, vì gánh nặng của những công việc hàng ngày tạm lùi ra phía sau. Nhưng anh đâu biết được rằng, chuyến đi này đã làm cuộc đời anh quay ngoắt sang một hướng hoàn toàn khác mà nếu bây giờ có ai đó tiên đoán cho anh trước thì anh cũng chỉ phẩy tay cười khẩy mà thôi.
Những hồi ức về một mảnh đất thời tuổi trẻ sôi động khiến mạch máu trong người anh đập mạnh hơn, rạo rực. Anh có dịp đi rất nhiều nước nhưng không hiểu sao chưa lần nào có được cái cảm giác kỳ lạ như bây giờ anh đang trải qua. Cảm giác như trở về nhà mình sau một thời gian dài đi vắng. Trong lúc anh đang mơ màng thì câu nói của ông bạn đường lọt vào tiềm thức của anh một cách đột ngột như thể một vị khách không mời xộc vào nhà chẳng thèm gõ cửa.
- Chúng tôi vừa ra tòa ly dị tuần trước. Chỉ tội hai đứa con gái. Chúng chẳng có tội tình gì trong chuyện này cả. Tôi quyết định đi chuyến này cũng là để giải tỏa tâm lý nặng nề của việc gia đình.
Sau lời tự thú chẳng ăn nhập gì với toàn bộ những chuyện mà mình đang thao thao bất tuyệt, ông Hiếu trở nên lầm lì ít nói hẳn. Con người ta vốn có cái nhu cầu chia sẻ nỗi bất hạnh của mình cho người khác, kể cả với người xa lạ mới gặp lần đầu, chính nhờ thế mà nó vơi bớt đi chăng?
Cả hai người hầu như không nói với nhau câu nào nữa, họ đều ngả đầu nhắm mắt như hầu hết hành khách trong khoang cho đến khi cô chiêu đãi viên vén tấm màn nhung đỏ bước ra thông báo, mọi người cần cài lại dây an toàn để máy bay chuẩn bị hạ cánh.
13
Theo như đã thỏa thuận, tôi đứng chờ Tachiana ở ngay trước cổng Học viện Âm nhạc. Trong lúc chờ đợi, tôi lật giở xem những trang báo, tạp chí đủ các loại trên sạp báo ngay lối xuống tàu điện ngầm. Ở đây ồn ào là vậy, nhưng thỉnh thoảng, xen giữa những khoảnh khắc im lặng trên đường phố lúc ngớt ô tô, vẫn vẳng đến những âm thanh trầm bổng của đàn violon hoặc piano, lặp đi lặp lại trong một bài tập của sinh viên từ những ô cửa sổ khép hờ trên tầng hai. Tôi cảm nhận được ánh mắt của bà bán báo không được thiện cảm cho lắm, lướt từ đầu đến chân và dừng lại ở đôi giày đã tàng, lâu ngày không được biết đến mùi si, dưới chân tôi. Đúng lúc đó, Tachiana xuất hiện trên ngưỡng cửa. Vừa nhìn thấy cô, tôi đoán ra ngay có chuyện gì đó không bình thường đã xảy ra. Khuôn mặt cô nhợt nhạt, mái tóc đẹp xổ tung một cách cẩu thả. Tôi bước vội về phía cô, suýt đâm phải một bà đang bê một bình hoa to đi ngang qua trước mặt. “Không có mắt hay sao?” bà ta định sừng sộ với tôi. May mà chiếc bình không rơi nên bà ta chỉ lẩm bẩm mấy câu thiếu văn hóa rồi lại đi tiếp.
- Có chuyện gì thế? - tôi hỏi và kéo tay Tachiana tránh sang một bên của dòng người đi lại trên vỉa hè.
- Hôm nay em không thể làm việc tiếp được. Bên An ninh họ gọi sang thẩm vấn - câu này cô chuyển sang nói bằng tiếng Việt. - Thế anh không biết chuyện gì à? Thị trưởng vừa tự sát đêm qua.
- Thật thế à? Kinh khủng thật. Ông ấy mới phát biểu trên truyền hình cơ mà. Thế nhưng, em thì có liên quan gì mà sợ? - trong giọng nói của tôi có gì đó hơi bất bình.
- Em chưa thể nói bây giờ cho anh được. Anh thông cảm nhé, em phải sang bên đó ngay bây giờ, xe đang đợi kia kìa - cô hất đầu về phía bãi đỗ xe cách đó không xa. Tôi nhận ngay ra biển số đặc biệt của chiếc xe Toyota màu đen. Tachiana bước vội tới và trước khi bước vào xe, cô ngoái đầu lại nhìn. Chiếc xe đi được một lúc rồi mà tôi vẫn chưa hết bàng hoàng vì việc vừa xảy ra. Tôi bước lại quầy bán báo và hỏi mua tờ “Sự kiện K.” mới nhất. Ngay trang hai, một cái tít in đậm đập ngay vào mắt: “Vào hồi 19 giờ 05 phút, Thị trưởng K., ông Vikor Kovalenko đã tự sát tại nhà nghỉ ngoại ô của mình, bên bờ hồ Xantovka cách K. 60km. Theo những kết quả điều tra ban đầu, vợ nạn nhân tìm thấy xác chồng mình trong nhà tắm hơi với hai vết đạn, một vào cằm và một vào thái dương. Người ta tìm thấy lá thư tuyệt mệnh của nạn nhân để trong túi áo ngực, viết bằng bút chì trên trang vở xé vội, với dòng chữ: “Tôi ra đi với lương tâm trong sáng. Tôi chỉ là nạn nhân của một trò chính trị bỉ ổi. Hãy tha thứ cho tôi”. Kết luận sơ bộ của thanh tra: tự sát. Ông Kovalenko, năm mươi ba tuổi, có vợ và một con gái đang học đại học”. Chẳng phải khó khăn lắm tôi cũng nhận ra khuôn mặt quen thuộc của ngài Thị trưởng đã từng làm khách của tỉnh Khánh Hòa qua bức ảnh chụp xác nạn nhân nằm trên vũng máu, bên tai tôi vẫn còn văng vẳng những lời phát biểu của ông khi giới thiệu Tachiana tại khách sạn Hòn Ngọc Việt hai năm trước. Thời thế đã thay đổi. Ông Kovalenko bị buộc vào tội sử dụng tiền công quĩ một cách bất hợp pháp cho hoạt động tranh cử của đảng “Dân chủ” vừa qua.
Tôi lững thững bước xuống ga xe điện ngầm. Trong đầu cứ day dứt mãi một câu hỏi: “Một nghệ sĩ vĩ cầm như Tachiana thì có liên quan gì tới cái chết của ông thị trưởng? Chẳng lẽ cô còn hoạt động chính trị nữa mà tôi không biết? Hay giữa cô và ông ấy có một mối quan hệ nào đó không bình thường?”. Tôi bỗng nhớ có lần cô thổ lộ rằng: “Thế giới của các văn nghệ sĩ cũng khốc liệt và tàn nhẫn đến phi nhân tính”.
Tôi bỗng giật mình vì tàu đã đến ga cuối cùng, hành khách chen lấn nhau ra cửa. Đến lúc này tôi mới biết là mình đã đi quá ga. Tôi lững thững đi đi lại lại trên sân ga đông nghẹt người, ai nấy đều vội vã, hối hả. Nhìn lên chiếc đồng hồ điện tử to tướng treo trên tường, tôi thấy vẫn còn sớm để về nhà. Vả lại, sống một mình, chẳng đợi ai mà cũng chẳng ai đợi mình thì có khác gì đâu. Tôi quyết định tạt qua thăm ông Việt Văn, chủ bút tờ báo “Văn Lang” bằng tiếng Việt tại tòa soạn nằm trên đường Gogol. Trên đường, tôi không quên ghé qua cửa hàng mua hai chai vang đỏ chính hiệu Crưm, thứ rượu mà ông bạn lớn tuổi của tôi rất ưa chuộng. Mọi lần, tiền lẻ bao giờ tôi cũng lấy lại, nhưng lần này tôi bỏ lại như một kiểu boa vậy. Có lẽ là vì nụ cười lẳng lơ của cô bán rượu dành cho tôi, mặc dù tôi cũng thừa biết là không chỉ một mình tôi thôi.
14
Ngay cái bút danh mà ông tự đặt cho mình cũng là một thông điệp mà ông muốn gửi gắm - Một văn sĩ Việt Nam - cho dù ông đã sống lưu vong tại đây hơn ba chục năm và lấy hai đời vợ Tây. Ông là người không theo một thứ chủ nghĩa nào cả. Cuộc đời của ông đã có vóc dáng một cuốn tiểu thuyết rồi, đầy đủ các mùi vị chua cay, ngọt bùi của trần gian: tuổi thơ nghèo đói, cuộc đời lính tráng, sinh viên, lao động công trường, tù tội, bệnh tật, tình yêu và gia đình chia ly... Tôi biết, trước khi lấy người vợ thứ hai, ông đã ăn ở với một cô gái điếm mười sáu tuổi nhiều năm trời. Ông có một biệt tài là kể chuyện. Nghe ông kể chuyện và đọc văn của ông là hai sản phẩm khác hẳn nhau. Trên báo “Văn Lang” ông chỉ viết duy nhất một chuyên mục “Những mảnh đời xa xứ”, về cuộc sống của người Việt tại các nước thuộc Liên Xô cũ. Tôi vẫn còn nhớ như in câu chuyện ông kể cho tôi về cuộc tình của ông với người vợ thứ hai của mình trong một lần tôi vào thăm ông tại bệnh viện điều trị chuyên khoa tim.
15
Crưm khiến ông Văn kinh ngạc. Không phải núi hay những thảm cỏ tuyệt đẹp, không phải những thân cây bạch dương lực lưỡng hay những khu di tích bảo tàng nổi tiếng. Chính là biển - một cơ thể sống khổng lồ mà ông say sưa chiêm ngưỡng hàng ngày, hàng giờ từ khi mới đặt chân tới đây sau khi mãn hạn tù. Khoảng không gian huyền diệu, vô biến đó hòa quyện với bầu trời xanh thăm thẳm ở đường chân trời xa tít tắp, quyến rũ và làm ông say đắm. Ông có thể yên lặng ngồi trên kè đá hàng giờ liền để ngắm nhìn những con sóng mềm mại, dịu dàng mơn trớn vuốt ve những mỏm đá xanh nhô ra biển. Chúng biến đổi màu sắc dưới ánh nắng mặt trời, lúc màu xanh da trời, lúc màu xanh lá cây, nhưng có lúc lại vàng sóng sánh. Biển đã trả lại cho ông sức khỏe bị hủy hoại vì cuộc sống lao động nặng nhọc nơi tù đày, tình yêu cuộc sống và những mơ ước, những ý định sáng tác mới. Tại đây, ông đã viết những dòng đầu tiên của cuốn tiểu thuyết “Đồi băng giá”, cuốn sách mang chất tự thuật về chính cuộc đời ông. Không hiểu sao, chính tại một nơi có điều kiện nghỉ ngơi tốt như ở Ianta, ông lại bị mất ngủ, nhất là về gần sáng. Ông buộc phải đến gặp bác sĩ và người ta kê cho ông một liệu trình điều trị chạy điện một tuần. Trong căn phòng nhỏ có hai giường, bệnh nhân nằm bên lại là một người phụ nữ mà mới thoạt nhìn ông có cảm giác như đã gặp ở đâu rồi. Hôm đầu tiên, hai người im lặng không nói với nhau một câu nào. Nhưng đến hôm thứ hai thì ông không chịu đựng nổi bầu không khí im ắng như trong phòng biệt giam trước đây vậy. Vẻ ngoài của ông có cái gì đó trông giống diễn viên Lý Tiểu Long nên thường gây được sự chú ý của phái nữ. Người phụ nữ cũng không phản đối tiếp chuyện.
- Chị cũng bị mất ngủ à? - ông buột ra một câu hỏi có vẻ hơi thừa.
- Cũng thỉnh thoảng - giọng chị trầm trầm, phát ra từ trong lồng ngực.
- Có đỡ không?
- Hiện chưa cảm thấy gì rõ rệt cả.
- Sau liệu trình này, chị sẽ làm gì nếu không bí mật?
- Tôi cũng chưa biết, có thể ra phơi nắng ngoài bãi biển.
- Chị có muốn đi thăm quan khu bảo tàng của nhà văn Chekhov không?
- Hay lắm à?
- Tôi nghĩ vậy. Khi chị về nhà, thế nào cũng có người hỏi: “Đã đến thăm nhà nghỉ của Chekhov chưa?” lúc đó chị sẽ trả lời ra sao?
- Anh thuyết phục được tôi rồi đó.
Một trong những nhà văn mà ông kính trọng nhất đã từng sống và làm việc tại đây.
- Chị hãy nhìn lên bức ảnh này - ông Văn chia sẻ những ấn tượng và suy nghĩ của mình với người phụ nữ mới quen khi hai người bước vào ngôi nhà nghỉ mặt trước trông ra biển. - Đây là anh em gia đình Chekhov. Một người là danh họa, một người nữa cũng viết truyện ngắn. Còn đây là cô em gái, người xây dựng và bảo tồn ngôi nhà bảo tàng này. Còn đứng cạnh ông là bà vợ, một nữ diễn viên nổi tiếng thời đó. Bà sống lâu hơn chồng cả nửa thế kỷ.
- Anh là người nước ngoài mà biết về Chekhov nhiều hơn cả tôi - Nhina Nikolaievna, tên của người bạn mới, thốt lên ngạc vẻ ngạc nhiên.
- Tôi học ngành tiếng Nga và Văn học mà.
Khi hai người bước chân ra phía ngoài hiên nhà bảo tàng, trời bỗng lất phất mưa, thứ mưa bóng mây rất điển hình của vùng nghỉ mát này.
- Chekhov còn là một nhà kinh doanh bất động sản sừng sỏ đấy - ông Văn lơ đãng nói. - Có vẻ như hai lĩnh vực đó không ăn khớp với nhau và người đời cũng cố làm ngơ cho những chi tiết thô ráp đó của một văn hào. Họ thích thần tượng hóa những con người nổi tiếng.
- Thật thú vị, không hiểu giọng nói của nhà văn như thế nào nhỉ? Tôi là một cô giáo dạy nhạc nên rất muốn biết?
- Tôi cũng không rõ người ta có ghi âm lại giọng của nhà văn hay không. Còn tiếng đĩa hát mà chị đang được nghe đó là giọng của vợ Chekhov, Kniper Chekhova. Đây là đĩa hát một trích đoạn trong vở kịch “Vườn anh đào” mà vợ ông đóng vai Ranhevska. Thật là một giọng ca tuyệt diệu. Chekhov khi còn sống đã tiên đoán rằng sau một trăm năm nữa, trái đất sẽ trở thành thiên đường, nhưng trên thực tế loài người đang phải đối mặt với rất nhiều thảm họa.
- Đúng như thế - Nhina thích thú nhìn lên gương mặt của người đàn ông châu Á mới quen. - Thật tôi không nghĩ rằng mình lại gặp một người nước ngoài thông thạo về văn học Nga sâu sắc như vậy.
- Còn tôi thì lại không nghĩ rằng tại đây mình sẽ gặp một người phụ nữ xinh đẹp và duyên dáng. Nếu chị thích đi dạo, ngày mai chúng ta sẽ đến Gaspru nơi đại văn hào Lev Tolstoi đã từng sống.
- Tôi khó mà cưỡng lại được lời mời của anh - Nhina trả lời và khuôn mặt hơi ửng hồng.
Trong những cuộc dạo chơi như vậy, hai người dần dần trở nên thân mật và bạo dạn hơn. Nhina kể rằng cô đã có chồng và một đứa con trai năm tuổi. Chồng cô có tính hay ghen và rất gia trưởng. Còn ông Văn thì thổ lộ một cách chân thành, và có lẽ đây cũng là người đầu tiên, cho cô nghe về những năm lưu đày của mình, về người vợ trước của ông và nguyên nhân vì sao ông phải ngồi tù.
Và cứ thế, trong vòng nửa tháng, hàng ngày ông Văn dậy sớm, tập dưỡng sinh và ngồi vào bàn viết tiểu thuyết. Đến gần trưa, ông đi đến khu vật lý trị liệu với một tâm hồn bay bổng và dễ chịu vì lại được gặp người bạn gái mới quen và những ấn tượng của cuộc dạo chơi chiều hôm qua vẫn còn vương vấn đâu đó. Một lần, trong một buổi đi dạo, họ dừng lại ở gần một Restaurant gần sát bờ biển và trên cánh cửa của quán có đính một tờ thông báo rằng chiều tối nay tại đây có biểu diễn của một gánh hát rong người Digan.
- Hay chúng mình đến đây xem nhỉ? - Nhina sốt sắng đề nghị.
- Tất nhiên là nên đến. Vả lại, tôi chưa bao giờ vào ăn uống ở Restaurant - ông Văn thành thật thú nhận và không hề cảm thấy xấu hổ.
- Thì tôi cũng có hơn gì anh đâu.
Nửa tiếng sau, hai người gặp lại nhau trên bờ biển. Nhina mặc một chiếc váy màu trắng bó sát lấy thân hình hơi đậm và gợi cảm của cô. Ông Văn cũng bận bộ com-lê màu xám. Mặc dù nhà hàng đông nghẹt người nhưng người đàn ông phục vụ cũng tìm ra một chỗ trống ở gần cửa sổ. Rượu vang Crưm tuyệt hảo (có lẽ, chính từ đây mà ông Văn luôn sính loại rượu nho của vùng bán đảo này chăng?)
Song, niềm phấn khích thực sự xâm chiếm lòng hai người khi tiếng đàn violon cất lên réo rắt và trên sàn diễn xuất hiện những vũ nữ Digan trong những bộ váy hoa sặc sỡ. Những đôi mắt long lanh bốc lửa, những bộ ngực săn chắc khêu gợi. Cả gian phòng lặng đi khi âm thanh đầu tiên của bản tình ca cất lên. Đó là sự giải thoát của những tình cảm bị dồn ứ đang tuôn trào. Cả gian phòng vỗ tay ầm ầm và đâu đó nổi lên tiếng huýt sáo đòi diễn lại. Không gian xung quanh như bị nhiễm điện và tác động lên ông Văn một cách bất khả kháng. Người ông nóng bừng, tay toát mồ hôi lạnh. Ông chỉ ao ước được ghì chặt người phụ nữ ngồi bên cạnh vào vòng tay mình, thèm khát những cái vuốt ve, những nụ hôn mà rất lâu rồi ông không được nếm trải. Rõ ràng, một tình cảm tương tự cũng đang bùng lên trong lòng người phụ nữ đang ở độ tuổi Balzac*. Khi hai người ra khỏi quán, bằng trái tim phụ nữ của mình, Nhina cảm nhận được tâm trạng của ông Văn. Trăng trên biển thật hoang dã. Thời gian và không gian như ngưng đọng. Con đường nhỏ trồng toàn cây dương dọc bờ biển chỗ thì chìm trong bóng tối chỗ lại sáng trắng lên. Ánh lân tinh lấp loáng tung lên theo những con sóng đập vào bờ đá. Hai bàn tay của họ lần tìm xiết chặt lấy nhau. Nhina chủ động dừng lại bên cạnh một gốc cây và vùi đầu vào ngực ông Văn. Đôi môi mềm mại, ươn ướt của cô hôn nhè nhẹ lên ngực, lên cổ, lên má ông, để cuối cùng hút chặt vào đôi môi khô nẻ và run rẩy của người đàn ông mà bằng linh cảm cô đã đoán được sẽ thuộc về mình. Họ đi về phía nhà nghỉ và cứ mười lăm hai mươi bước lại dừng lại hôn nhau. Ông Văn cảm thấy mọi đau khổ mà mình phải chịu đựng hơn bốn năm qua hình như là cái giá phải trả cho những gì mà ông đang có trong hiện tại.
Ngày hôm sau, hai người gặp nhau ở cửa phòng điều trị. Nhina có vẻ như nửa muốn xin lỗi, nói rằng:
- Anh biết đấy, hôm nay là ngày cuối cùng của đợt nghỉ phép. Mai em đã phải lên đường về rồi.
- Thật thế à? - ông Văn hốt hoảng hỏi lại. - Thế mấy giờ em đi?
- Mười giờ sáng mai - Nhina khẽ mỉm cười, nụ cười độ lượng mang sắc thái mẫu tử.
Ông Văn lập tức quyết định rất nhanh: Đây là đêm duy nhất còn lại của hai người, họ phải được ở bên nhau. Ông dốc nốt số tiền mang theo và thuê một phòng trong khách sạn “Con đầm bích” khá sang trọng, tầng trên cùng. Khi ông nói điều này với Nhina trong nhà ăn tập thể của khu điều dưỡng, cô không hề ngạc nhiên như thể đã chờ đón ở ông chính bước quyết định này.
- Tùy anh thôi - cô nói nhỏ và lại tiếp tục ăn món xúp cá.
Hai người ngồi bên nhau trên chiếc xích đu ngoài ban-công. Họ uống sâm-panh, ăn hoa quả và ngắm nhìn cảnh hoàng hôn trên biển, ngắm nhìn những dãy núi mờ xanh ẩn khuất trong một lớp sương mỏng tang, bảng lảng như trong truyện thần thoại. Chẳng ai nói với ai câu nào. Nhina đặt cốc rượu xuống bàn và khẽ đẩy cửa đi vào phòng. Tiếng bàn chân trần đi trên lớp thảm đột ngột im lặng và sau đó là tiếng nước xả trong phòng tắm. Ông Văn vẫn ngồi im ngoài ban-công, lắng tai nghe. Ánh hoàng hôn chỉ còn lại một dải màu đỏ sẫm chạy gần như song song với đường chân trời. Mặt biển như phồng lên. Tiếng nước chảy ngừng lại. Không gian trong căn phòng trở nên tĩnh lặng khác thường. Tiếng công tắc điện trong phòng ngủ khô khốc vang lên khiến ông giật mình quay đầu lại. Nhina đứng ở giữa phòng, ngay dưới chùm đèn trần bằng pha lê lộng lẫy, hoàn toàn khỏa thân. Chiếc khăn tắm từ trên đôi vai tròn lẳn rơi xuống chân. Ông Văn thấy cổ họng khô lại, tim đập gấp gáp trong lồng ngực. Ông chống tay vào thành ghế đứng dậy, đầu óc chếnh choáng...
- Vào đi anh!
16
Tòa soạn báo “Văn Lang” nằm trên phố Gogol 13, đối diện chợ thực phẩm Sumska. Đó là một căn hộ ba phòng ở tầng một trong một khu nhà xây từ thời Stalin bằng gạch đỏ đã cũ kỹ đi nhiều vì thời gian, mưa gió. Đây là khu trung tâm thành phố nhưng yên tĩnh và rất nhiều cây cổ thụ, nhất là sồi và cây phong. Ngay khi còn đứng bên ngoài cánh cửa, tôi đã nghe thấy tiếng cãi cọ rất to vọng ra. Tay tôi đặt lên trên chiếc núm chuông màu đỏ lưỡng lự một lúc. Tôi ghé tai vào lỗ khóa và nghe rõ tiếng ông Văn nói với ai đó rất to, giọng bực tức: “Phải, tôi dát chết đấy, thì sao nào? Tôi nhổ toẹt vào cái anh hùng của các anh”. Sau đó là một thoáng im lặng. Một giọng ai đó nghe quen quen chen vào: “Thôi đi hai bác, nhận ra nhau đồng hương Nghệ Tĩnh trên đất khách quê người là quý rồi, nặng lời với nhau làm gì”. “Lại mấy ông vô công rồi nghề tranh luận chính trị vã đây, đúng là hết khôn dồn sang dại” tôi nghĩ bụng và nhấn chuông. Bên trong lại im phắc, sau đó là tiếng bước chân quen thuộc của ông Văn trên sàn nhà lát gỗ. Tôi đứng lùi lại một bước đối diện với con mắt thần để người bên trong nhìn rõ là ai.
- Tưởng ai, vào đi - ông Văn đẩy rộng cánh cửa ra và nói to. - Lại còn cầm cái túi gì nữa thế này? Đây đâu phải cửa quan mà cậu phải có gì lót tay mới được vào. Hôm nay tòa soạn có mấy ông khách mới từ trong nước sang công tác, chà, mới ngồi một lúc mà đã tranh luận rồi.
Tôi đi theo ông Văn qua một hành lang rộng, hai bên tường treo các bức tranh thêu phong cảnh Việt Nam nổi bật trên nền giấy bồi tường mới. Đến trước cửa phòng khách, ông Văn nép người sang một bên để tôi bước vào trước. Trong phòng có khoảng năm sáu người đang ngồi xung quanh chiếc bàn tròn để ở giữa nhà. Khói thuốc lá nồng nặc. Không hiểu sao chẳng ai chịu mở cửa sổ cho thông thoáng.
- Giới thiệu với mọi người, đây là một cộng tác viên của tờ báo chúng tôi, một văn sĩ ẩn dật nơi xứ người và không biết chừng sẽ là một Nguyễn Du thứ hai chứ chẳng chơi - ông Văn vẫn có cái giọng châm biếm đối với những người bạn văn chương ít tuổi hơn như vậy. - Còn các anh đây là khách của Trung tâm Y học cổ truyền Việt Nam.
Tôi bắt tay từng người và thốt lên:
- Ơ, anh Trọng, chào anh, mới sang khi nào đấy? Chị có đi cùng không? - tôi chợt nhớ tới lúc nãy đứng ngoài cửa nghe thấy giọng ai đó quen quen, thì ra là anh Trọng ở Khánh Hòa.
- Chị chưa sang vì ngại tình hình chính trị bên này chưa ổn định. Mới đấy mà đã gần hai năm rồi còn gì?
Tôi ngồi xuống chiếc ghế trống bên cạnh anh Trọng và đưa mắt nhìn từng vị khách, cố đoán xem cuộc tranh cãi của mọi người là về vấn đề gì. Ngay lúc đó, ông Văn đã lên tiếng:
- Giáo sư Hiếu đây lại là người đồng hương với anh, cùng người làng Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu - ông Văn vỗ lên đầu gối ông Hiếu ngồi bên cạnh. - Đây cũng là mảnh đất địa linh nhân kiệt, quê của Hồ Xuân Hương và nhiều danh nhân văn hóa Việt Nam khác.
- Và còn có cả quái kiệt - ông Hiếu nói chêm vào, chẳng che đậy sự ám chỉ của mình.
- Thật là không phải phép khi khách và chủ nhà lại cãi nhau, nhưng xét kỹ ra anh và bác Hiếu không chỉ là học cùng trường cấp ba mà còn có họ hàng xa với nhau. Bác Hiếu kể lại rằng khi nghe tin anh ở lại bên này không về, cả làng người ta chửi rủa anh, nói xấu gia đình anh, xem anh như một kẻ phản bội tổ quốc - ông Văn rót chè vào cốc của tôi. - Bác Hiếu chửi anh là thằng hèn nhát, tham sống sợ chết. Trong khi cả nước có chiến tranh thì anh lại lưu vong ở lại đây vì hạnh phúc của cá nhân mình. Có đúng thế không bác?
- Điều đấy anh biết rõ hơn tôi, cần gì phải hỏi. Nhà nước bỏ tiền cho anh đi học, người khác chết thay cho anh ngoài chiến trường.
- Thế bác có biết máu của người Việt ở cả hai phía đổ xuống thực sự vì ai không?
- Đúng là ông này ở nước ngoài lâu nên chẳng còn lòng yêu nước gì hết - ông Hiếu nói, cảm giác bất bình khinh bỉ lộ rõ qua nét mặt.
- Lòng yêu nước chỉ dành cho tầng lớp thống trị thôi, mà nó đâu phải là tài sản sở hữu riêng của một ai. Tôi cũng là một nhà yêu nước chứ không chỉ riêng các lãnh tụ độc quyền thứ tình cảm dễ bị hiểu lầm này. Tôi yêu nước theo cách của tôi.
Trong lúc mọi người tranh cãi, bàn luận sôi nổi về tình hình chính trị trong và ngoài nước thì anh Trọng ghé sát vào tai tôi nói nhỏ:
- Vợ anh có gửi một món quà cho nữ nghệ sĩ Tachiana. Em có thể giúp anh việc này được không?
- Tất nhiên là được. Em đang dịch giúp cô ấy bản luận án về nhạc dân tộc.
- Cô ấy có khỏe không? Hiện đang ở đây hay đi biểu diễn nước ngoài? Vợ anh bảo phải chuyển đến tận tay.
- Khỏe. Hiện nay đang ở đây, em vừa gặp cách đây một tiếng. Cô ấy có việc không dễ chịu lắm với chính quyền mới.
- Sao thế? Văn nghệ sĩ thì có liên quan gì tới chính trị.
- Cũng không hẳn thế. Xét cho cùng, có ai nằm hoàn toàn ở ngoài chính trị đâu. Mình không muốn dây vào nó thì nó lại dây vào mình. Có gì em sẽ gọi điện cho anh sau.
Sau khi khách ra về, ông Văn khép cánh cửa lại và buông ra một câu: “Không biết đến bao giờ người Việt mới hết hận thù, đố kỵ vì những thứ chủ nghĩa ngoại lai chắp vá du nhập vào đất nước mình? Chẳng khác gì căn bệnh di truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Đấy, mình không có những nhà tư tưởng lớn, những triết gia lớn làm mái che tinh thần cho cả dân tộc thì hậu quả là như thế đấy!” Ngừng lại một lát, ông nói tiếp:
- Tôi đoán chắc trăm phần trăm là mấy ông khách vừa ra nói với nhau là cái loại như tôi mà ở trong nước thì chỉ đáng tống vào nhà đá và thương hại cho cái cuộc sống lưu vong của tôi nơi đất khách quê người. Các ông ấy nhất nhất phải noi theo gương ông này, sống núp bóng ông nọ. Mở mồm ra là nói: “Tôi quen ông Bộ trưởng này, tôi được mời đến dự chiêu đãi tại nhà riêng của nhân vật nổi tiếng nọ...” Bản lĩnh cá nhân bị thui chột thì làm sao sản sinh ra được những nghệ sĩ lớn, những nhà tư tưởng lớn! . Các ông ấy ở trong nước nên tưởng mình là nhất, cứ thử đi ra ngoài xem!
- Mới biết “Lúa Mới” ngon hay là “Vang Crưm” ngon? - tôi nói giọng đùa cợt.
Ông Văn có lẽ bị cuộc nói chuyện không vui vẻ với các vị khách làm cho mất hết hứng, cứ ngồi thừ ra sau chiếc bàn làm việc của mình.
- Lại còn chê báo mình viết tiếng Việt chưa sõi, sai nhiều lỗi chính tả - ông lẩm bẩm, vẻ mặt cau có và nhìn không chớp mắt vào cây xương rồng con lởm chởm đầy gai nhọn để trên bàn.
17
Chẳng cần phải đợi Tachiana gọi điện, ngay buổi tối hôm đó, tôi đã được biết về vụ việc của cô qua kênh truyền hình Simon của thành phố. Theo như lời của phóng viên làm thiên phóng sự này thì mọi tai họa đối với Tachiana bắt đầu từ việc cô có tham gia một chương trình ca nhạc ủng hộ cho ứng cử viên Tổng thống của Đảng “Dân chủ”, đảng cầm quyền cũ bị thất bại trong đợt bầu cử vừa qua. Thiên phóng sự đã đưa ra những hình ảnh và sự kiện khá bất ngờ đối với tôi và hình như ấn tượng về nữ nghệ sĩ violon nổi tiếng trong lòng người hâm mộ bị bôi đen và hạ thấp đi rất nhiều. Tôi cảm nhận ngay được ý đồ không tốt đẹp của những người làm thiên phóng sự này đối với Tachiana và gián tiếp đối với ông Thị trưởng của thành phố. Việc cử cô đi dự kỳ thi violon quốc tế cũng bị đưa ra với lý do như thể cô được giải không phải vì tài năng mà nhờ tiền lobby của ngài Thị trưởng đã quá cố. Người ta còn đưa ra một số bức ảnh chụp Tachiana và ông Kovalenko lúc thì ở ngoài bãi biển thuộc đảo Síp, lúc thì trong nhà hàng “Thăng Long” nổi tiếng của người Việt Nam. Người ta còn nhắc đến căn hộ sang trọng mà cô đang ở ngay trung tâm thành phố là một quyết định cấp nhà sai trái của Ủy ban Nhân dân tỉnh, bởi vì nhiều người còn xứng đáng hơn mà vẫn phải sống trong những điều kiện khó khăn, chật chội. Nguồn gốc người Việt của cô cũng được nhắc tới nhưng dưới một góc nhìn hạn hẹp kiểu dân tộc chủ nghĩa... Tôi ngồi thừ trên đi-văng suy nghĩ mông lung. Một dự cảm không tốt lành cho Tachiana xâm chiếm mọi suy nghĩ trong đầu. Thiên phóng sự vừa qua rõ ràng là một bước chuẩn bị dư luận cho những những gì tiếp sau không có hậu. Tôi với điện thoại gọi cho Tachiana, nhưng trong ống nghe chỉ có những tiếng tút dài vô vọng. Có thể cô đã bị giữ lại Viện Kiểm sát để làm nhân chứng cho vụ án? Tôi gọi điện cho một số người bạn quen để hỏi tình hình thì chẳng ai biết gì hết. Tôi cảm thấy bất lực như một kẻ nhìn thấy người sắp chết đuối dưới sông mà bản thân lại không biết bơi.
Suốt đêm tôi không chợp mắt được và chỉ đến gần sáng mới thiếp đi với ý nghĩ: “Không thể để Tachiana một thân một mình như vậy. Cô rất cô đơn”. Tự đáy lòng mình, trong bóng tối của căn phòng chật hẹp tại ký túc xá sinh viên nằm gần sát ngoại ô thành phố, tôi tự thú nhận với chính bản thân mình: Tôi đã yêu.
18
Tôi thật không ngờ là một cô gái trẻ đẹp, tài năng, nhiều người ái mộ và dịu dàng như Tachiana lại bị nhiều kẻ ganh ghét như vậy. Cái cung cách trả lời, cái nhìn khinh khỉnh qua cặp kính, cái kiểu phủi bụi làm phách trên ve áo của bà hiệu trưởng Nhạc viện khi thấy tôi bước vào hỏi về tình hình của Tachiana đã nói lên tất cả:
- Anh là gì với cô ta? - giọng bà ta đầy vẻ xách mé.
- Một người đồng hương.
- Đi mà hỏi ông Kovalenko của cô ta ấy - bà sẵng giọng. - Hoặc sang bên Viện Kiểm sát mà hỏi, ở đây tôi không có thời gian tiếp những chuyện vớ vẩn ấy đâu.
Nói xong, bà ta làm ra vẻ đang bận chúi mũi tính tính toán toán gì đó trên bàn. Đôi môi tô son đỏ chót bặm lại trông thật đáng ghét. Tôi khép cánh cửa lại sau lưng, cũng không thèm chào một câu. Cô thư ký gầy đét của bà ta ngồi ở phòng ngoài đang đánh móng tay sau chiếc máy tính cũng nhìn tôi với ánh mắt câng câng. Tôi nhận thấy tấm ảnh Tachiana khổ lớn treo ở đầu hành lang trong buổi nhận giải thưởng âm nhạc quốc tế đã bị hạ xuống đang còn để dưới gầm bàn cô ta, thay vào đó là tấm áp-phích của ban nhạc rock Viagra trong buổi biểu diễn trên quảng trường Tự Do ủng hộ cho ứng cử viên Tổng thống của đảng Cam. Chính trị đã làm thay đổi các giá trị và thần tượng nghệ thuật. Tôi đi ngược lại một đám đông sinh viên, kẻ vác kèn, người đeo violon sen ồn ào huyên náo cười nói bô bô. Ai nấy ăn mặc đều kỳ dị, khác người. Có một cô tóc vàng xõa xượi khoác cả một tấm chăn rách bươm trên mình. Sự vui vẻ, hồn nhiên của họ khiến tôi chợt cảm thấy buồn và thương cho hoàn cảnh của Tachiana. Bây giờ tôi mới hiểu được, cô phải sống và làm việc trong một môi trường đầy sự ghen ghét đố kỵ như thế nào? Tôi hình dung ra việc cô đang bị tạm giam ở bên an ninh mà bồn chồn không yên. Chắc chắn những kẻ như bà hiệu trưởng kia sẽ lại đâm bị thóc chọc bị gạo, ăn không nói có để Tachiana phải ngồi tù mới thỏa cái tâm đố kỵ ác độc. Nếu không giúp cô lúc này, rất có thể, bằng nhiều thủ đoạn đê tiện, những kẻ không ưa cô sẽ đẩy cô vào vòng tù tội. Không có tội còn bị đặt điều vu oán giáo họa, huống hồ đây lại có dính líu đến một nhân vật nổi tiếng của chế độ cũ đang bị cật vấn để phải đi đến bước tự sát. Làm gì để giúp Tachiana bây giờ? Ở địa vị tôi, một anh sinh viên mới tốt nghiệp trường Tổng hợp khoa Lịch sử được vài năm, đang còn phải kiếm tiền bằng đủ các nghề để theo đuổi một hoài bão từ khi còn bé là trở thành nhà văn.
Tôi rẽ vào quán ăn bình dân “Con gà trống” nằm dưới tầng hầm của Viện bảo tàng Mỹ thuật. Đây là nơi ăn uống của giới sinh viên mấy trường nghệ thuật trong khu Atakara Iarosha. Tôi rất thích quán ăn này bởi cách bài trí phóng khoáng cũng như các món ăn. Vào các chiều thứ Năm diễn ra các show diễn của sinh viên Nhạc viện và trường Múa ba-lê. Ờ mà hôm nay đúng là thứ Năm rồi. Tôi ăn nhẩn nhơ để kéo dài thời gian đến lúc bắt đầu chương trình là vừa. Một cô gái mặc đồng phục của cửa hàng mang báo tới các bàn ăn để bán. Tôi lật giở chồng báo cô đặt lên bàn và chọn ra hai tờ có đăng tin về vụ án mà tôi quan tâm. Tờ “Tuyệt mật”có chạy hàng tít: “Tôi không tin vào khả năng tự sát của ngài Thị trưởng” của đại biểu quốc hội Vladimia Sivkvich: “Tôi hoàn toàn có quyền không tin vào kết luận của Viện Kiểm sát về cái chết của Thị trưởng Kovalenko. Đúng là ngay sau khi phát hiện ra xác của ông tại nhà nghỉ ngoại ô, một loạt các quan chức của chính quyền mới đã đưa ngay ra kết luận: tự sát. Thường thường, cần phải chờ đợi kết luận của pháp y, rồi tiến hành điều tra. Ở đây, điều tra chưa có đã kêu ầm lên là tự sát. Điều này nói lên một điều: chính quyền muốn để trong nhận thức của dân chúng ông Kovalenko tự nguyện muốn kết liễu cuộc đời tội lỗi của mình. Nhưng tôi tự hỏi, liệu một người có thể bắn hai phát đạn vào đầu mình không? Phát đạn đầu tiên bắn vào cằm, viên đạn trổ một lỗ qua mũi, phát thứ hai vào thái dương. Nếu ông Thị trưởng muốn tự sát, hà tất ông phải dùng đến phát thứ hai? Tại sao ông không đưa súng lên thái dương ngay? Hay có ai đó đã ‘giúp’ ông trong việc này? Chắc chắn có kẻ nào đó trục lợi trong cái chết của ông”. Vị nghị sĩ này còn cho biết thêm một giả thuyết nữa là: “Phóng viên của kênh truyền hình số 7 đã quay được cảnh một ông thầy tu bước ra khỏi nơi giữ thi hài ông Thị trưởng”. Theo phong tục của Đạo Pravoxlavia, người tự tử sẽ không được rửa tội.
Tôi cảm thấy lo ngại thực sự khi đọc tiếp mẩu tin thứ hai trên báo “Sự kiện”: Ông Kovalenko bản tính là một người giao thiệp rộng, có rất nhiều bạn bè trong các giới, đặc biệt là giới nghệ sĩ. Một ngày trước khi xảy ra thảm kịch, tại chính ngôi nhà nghỉ này đã diễn ra một cuộc gặp mặt thân mật với sự tham gia của nhiều nhân vật nổi tiếng của thành phố. Nhiều nguồn tin cho hay, hình như ông đã biết trước được kết cục này và tổ chức cuộc vui chơi cuối tuần với đông đủ bạn bè như một lời chào vĩnh biệt. Hiện nay, Viện Kiểm sát đang tiến hành lấy bằng chứng của tất cả các nhân vật có mặt trong ngày hôm đó. Ngoài mẩu tin trên, báo còn đăng kèm một bức ảnh đám đông khách khứa vui vẻ đàn hát ngồi xung quanh một đống lửa to với dòng đề tựa sặc mùi trinh thám rẻ tiền: “Đêm hoan lạc trước hai tiếng súng”. Mặc dù báo in trắng đen và ảnh không được nét, nhưng tôi nhận ngay ra Tachiana ngồi trên một khúc gỗ sồi bên trái ông Thị trưởng. Một cảm giác nao nao khó tả dâng lên trong lòng tôi. Vậy là cô phải trả lời trước các thẩm phán về mối quan hệ của mình từ trước tới nay với nạn nhân. Báo chí sẽ lại được một dịp làm um lên xung quanh việc này. Những nhà tư tưởng của chính quyền mới sẽ khai thác triệt để và sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng để chứng minh một điều: chính quyền cũ là xấu, là thối nát, tham nhũng. Chính trên đống đổ nát này, những người mới có trong tay quyền lực sẽ xây tượng đài cho chính bản thân mình và đẳng cấp của mình.
19
Thực ra, tôi đã biết gì về cuộc sống riêng của Thảo? (Tôi xin mạn phép được gọi tên tiếng Việt của cô, để cảm nhận cô như một người đồng hương thực sự). Hoàn toàn rất ít ỏi. Những cuộc gặp gỡ với cô cũng có thể đếm trên đầu ngón tay, khi thì ở thư viện thành phố, khi trong một quán cà phê không tên tuổi, thỉnh thoảng trong những dịp Tết lễ của cộng đồng người Việt tại nhà hàng “Thăng Long”. Cô chưa bao giờ mời tôi về nhà riêng của mình. Giữa tôi và cô vẫn là một khoảng cách vô hình, cho dù tôi đã cảm nhận được hơi thở của cô, mùi nước hoa cô vẫn ưa dùng và nhìn rất sát chiếc bớt màu đỏ sẫm (đôi khi tôi vẫn ao ước được đặt lên đó một nụ hôn) trên cổ mỗi khi chúng tôi gặp nhau, ngồi cạnh nhau để làm việc với bản dịch luận văn của cô. Cô đang là một siêu sao, được báo chí, giới thượng lưu giàu có của Ucraina sủng ái. Với một vẻ đẹp độc đáo tràn đầy sức sống như vậy, cô sẽ chẳng bao giờ được yên thân trước những con mắt thèm khát của đám mày râu có cuộc sống quá đầy đủ dư thừa, chỉ nghĩ cách tiêu tiền sao cho hơn người.
Rất có thể, Thảo đã là tình nhân của ông Thị trưởng quá cố? Ý nghĩ này như một tấm phông lớn màu đen bất chợt hạ xuống ngăn cách tôi với thế giới xung quanh, những thân hình cuồng nhiệt, gần như khỏa thân của các vũ nữ, tiếng nhạc rock, tiếng huýt sáo la ó và những ánh đèn màu nhấp nháy...
Tôi bất chợt cảm thấy nóng mặt khi hình dung ra cái thân hình to lớn, lông lá với chiếc bụng bự của ông Kovalenko bên cạnh Thảo, mảnh mai thanh thoát. Một cái gì đó bứt rứt khó chịu khiến tôi không thể ngồi yên mà buộc phải đứng bật dậy và bước ra khỏi quán. Trong đời thiếu gì những cảnh trái khoáy như vậy. Điều này chắc chắn sẽ còn rắc rối to cho cô trong vụ án này. Ít nhiều, cô cũng phải biết được những chi tiết liên quan tới nguyên nhân dẫn đến cái chết của ông ta, nhất là những gì xảy ra trong cái đêm trước khi ông tự sát. Đó cũng chính là mục tiêu của hàng chục tờ báo lớn đang ngong ngóng tung phóng viên và tai mắt của mình khắp các cơ quan an ninh và Viện Kiểm sát với hy vọng tăng lượng phát hành gấp nhiều lần. Ở đời, người ta vẫn mưu danh và cầu lợi trên tai họa, bất hạnh của đồng loại như một thứ bản năng sinh tồn vậy.
Một ngọn gió đêm man mác thổi dọc con đường vắng, lốm đốm ánh đèn cao áp màu xanh dìu dịu. Chiếc tàu điện, có lẽ là chuyến cuối cùng, đang lắc lư, ì ạch tiến tới. Tôi là hành khách thứ hai trong toa. Gần phía cuối toa, một gã ăn mặc lôi thôi lếch thếch, nồng nặc mùi rượu đang ngồi ngủ gật, cái đầu rối bù lắc lư theo nhịp của con tàu. Thỉnh thoảng gã lại giật mình choàng tỉnh, ngơ ngác nhìn ra xung quanh như không hiểu mình đang ở đâu. Nước dãi chảy thành dòng bên mép gã. Dưới chân, một vũng nước đang chảy dọc theo rãnh của tấm ván gỗ lót sàn toa.
Người phụ nữ lái tàu điện quay đầu lại nhìn chúng tôi, rồi đưa tay lên che miệng ngáp.
Đến lúc này, tôi vẫn không thể ngờ rằng chính tôi là người đầu tiên được đọc lời khai nhân chứng của Thảo với các thẩm phán viên của Viện Kiểm sát về những gì xảy ra vào cái đêm kinh hoàng đó.
20
Phòng tiếp đón của Trung tâm y học Phương Đông tại K. nhốn nháo lên vì một cú điện thoại vào tầm giữa trưa. Ông Linh giám đốc, mắt còn đỏ quạch, đầu tóc chưa kịp chải sau một giấc ngủ chập chờn trên ghế, lập tức cho họp toàn bộ các bác sĩ lại.
- Sau ba chục phút nữa, người ta sẽ cho xe đến đón. Tôi đề nghị giáo sư Hiếu chịu trách nhiệm việc này. Ông ấy nói là mọi bệnh viện tốt nhất ở đây đã chịu bó tay...
- Bệnh thì chữa được nhưng mệnh không chữa được - giáo sư Hiếu khẽ nói, vẻ mặt gần như vô cảm, mấy ngón tay dùi đục thô kệch gõ nhịp khe khẽ lên mặt bàn.
- Đấy chỉ là lời biện hộ cuối cùng của người thầy thuốc thôi. Anh cũng nên hiểu rằng, anh bây giờ lãnh một trọng trách không chỉ của người thầy thuốc mà còn của một nhà ngoại giao nữa đấy. Anh sửa soạn đồ nghề và thay quần áo đi là vừa.
Chiếc xe Jip màu đen mở hết tốc lực trên con đường dẫn ra ngoại ô nắng chiều loang lổ. Trên xe, ngoài giáo sư Hiếu, người phiên dịch (chính là tôi) còn có một người đàn ông trạc tầm gần năm mươi, tóc bạc, nhưng râu vẫn còn đen. Nhác trông giống người vùng Kavkaz hơn là người Xlavơ. Ông ta ngồi phía trên, bên cạnh lái xe và hầu như không nói câu gì trong suốt thời gian trên đường. Người nói duy nhất là ông Hiếu. Ông vỗ vào đầu gối tôi mấy cái:
- Chà, cái ông văn sĩ gàn nửa mùa của cậu lắm lý sự ra phết. Sống kiếp lưu vong mà không biết thân, loại đấy ở nhà thì nó riềng cho ra bã, cả đời không ngóc cổ lên được. Nghe đâu, người vợ đầu đã đuổi ông ấy ra khỏi nhà thì phải, không đáp ứng được là nó đá đít thôi. Thật tội nghiệp cho ông ấy, sống tha phương nơi đất khách quê người thì cuộc đời còn gì là ý nghĩa! Bên này chỉ chơi gái là giỏi chứ làm được tích sự gì cho đời. Nghe nói, ông Văn lăng nhăng lắm phải không?
Tôi rất lấy làm lạ khi con người ta rất hay tự cho mình cái quyền được đánh giá hạnh kiểm của người khác, nhất là trong chuyện ái tình. Đối với người khác là “chơi gái” và “lăng nhăng” nhưng khi nói về bản thân mình thì lại chỉ toàn những từ ngữ mỹ miều như: tình yêu chân chính và trong sáng vô tư. Tôi thực sự cũng hơi phật ý khi nghe thấy ông Hiếu nói những lời nhận xét vội vã như vậy về ông bạn tôi. Ông Văn đến giờ vẫn chu cấp tiền cho người vợ đầu đã ly dị và đứa con trai lớn sắp tốt nghiệp phổ thông. Làm gì có cái chuyện “đá đít” như ông Hiếu vừa nói. Ông Hiếu mới chỉ có gặp ông Văn có một lần duy nhất và nghe phong thanh đâu đó về đời tư của ông tổng biên tập. Tôi tin rằng từ ngay cuộc gặp mặt đầu tiên giữa hai con người, sự yêu ghét đã được xác định rồi. Thật khó mà dứt bỏ được những mặc cảm ban đầu mang tính chủ quan. Tôi định cãi lại nhưng không hiểu sao lại thôi, chỉ im lặng nghe. Xe ngoặt vào một con đường nhỏ chạy men theo một hồ nước rộng. Ngay sát bờ neo mấy chiếc thuyền buồm trắng tinh và một chiếc xuồng máy sơn màu vàng tươi dập dà dập dềnh theo nhịp sóng xô vào bờ. Mở cửa cho chúng tôi bước vào tòa biệt thự là một người đàn ông cao lớn, trán hói, có một nốt ruồi lớn ở sát cánh mũi. Nhưng bàn tay ông ta đưa ra bắt lại rất nhỏ bé và mềm mại, trái ngược với thân hình đồ sộ của chủ nhân. Chiếc răng bịt vàng lóe lên trong một nụ cười hơi là lạ. Khuôn mặt cười nhưng đôi mắt màu xám vẫn lạnh tanh. Tôi cảm nhận ngay được một ma lực nào đó toát ra từ con người có cái gáy phẳng và to như cổ bò đang đi phía trước chúng tôi trên con đường lát gạch đỏ dẫn vào cửa chính của khu nhà hai tầng tĩnh mịch. Các bồn hoa xung quanh màu sắc sặc sỡ. Tiếng ong bay vo vo trên các nhụy hoa có lẽ là tiếng động to nhất ở đây. Tôi là người bước vào cuối cùng, trước lúc khép cánh cửa lại còn kịp nhìn bao quát cả khu vườn rộng theo phong cách Anh và thấy một chú sóc con kéo lê chiếc đuôi lông xù leo thoăn thoắt lên một thân cây sồi, cạnh hồ cá cảnh có những bức tượng đồng nhỏ của các con thú để rải rác hai bên bờ. Một người lao công đang dùng vòi nước tưới cho bãi cỏ xanh rờn được cắt xén phẳng phiu như một tấm thảm khổng lồ chạy ra sát bức tường cao vây quanh toàn bộ khu nhà.
Căn phòng của bệnh nhân nằm trên tầng hai. Các cửa sổ to rộng đều được kéo rèm che kín. Người hầu gái cao dong dỏng có khuôn mặt dễ ưa, đỡ chiếc vali nhỏ trên tay giáo sư Hiếu. Một bà già da trắng toát đang ngồi trên chiếc ghế phía đầu giường đưa ánh mắt vẫn còn tinh anh về phía chúng tôi. Gần cửa sổ, một người đàn ông còn trẻ, đeo kính trắng, có lẽ là bác sĩ riêng được mời đến, nhìn ông Hiếu từ đầu đến chân với ánh mắt không lấy gì làm thiện cảm lắm. Anh ta nói qua tình hình bệnh trạng với cái giọng mà tôi cảm nhận được là: chẳng còn hy vọng gì đâu, đừng tốn công vô ích làm gì. Tôi đo được ý nghĩ của tay bác sĩ qua ánh mắt sau tròng kính trắng của anh ta dừng lại hơi lâu trên chiếc ca-vát kiểu cũ hơi xộc xệch trên cổ áo ông Hiếu.
- Các ông hãy vì Chúa cứu giúp con tôi - bà già vừa nói vừa làm dấu thánh.
- Có lẽ mẹ nên về phòng mình nghỉ đi thì tốt hơn - người đàn ông nói, giọng ồm ồm.
Bà già đứng lên và lặng lẽ đi ra phía cửa như một cái bóng. Trước lúc bước ra, bà còn quay lại làm dấu thánh về phía chúng tôi một lần nữa và lẩm nhẩm điều gì đó như cầu nguyện.
Ông Hiếu ngồi xuống chiếc ghế lúc nãy bà cụ ngồi và xem mạch cho bệnh nhân. Ông nhắm mắt lại và cứ ngồi yên như vậy khoảng năm phút. Ông như biến thành một con người khác, hoàn toàn không phải là con người gân cổ lên cãi nhau với ông Văn, không phải là con người hơi lắm lời, ngồi lê đôi mách thích chõ mũi vào đời tư người khác như tôi biết. Nhìn khuôn mặt ông lúc này tôi mới chợt hiểu rằng con người này sinh ra để làm thầy thuốc. Ông chính là một nghệ sĩ trong nghề của mình.
- Liệu có hy vọng gì không, thưa giáo sư? - người đàn ông cúi đầu xuống, khẽ hỏi.
- Tôi chưa dám khẳng định, nhưng ta cứ thử vận may một lần cuối xem sao! Cho phép chỉ có tôi và bệnh nhân ở trong phòng này, có được không? Thêm cô giúp việc nữa.
- Tất nhiên là được - người đàn ông hấp tấp trả lời.
- Lỡ có chuyện gì xảy ra thì sao? - tay bác sĩ phản đối nhưng chủ nhân đã kéo tay anh ta đi về phía cửa.
Ba chúng tôi kéo nhau ra phòng bên ngồi. Đây có lẽ là phòng làm việc của chủ nhân nhưng trông lại có dáng dấp của một bảo tàng nghệ thuật. Bộ xa-lông da mà chúng tôi ngồi đặt đối diện một lò sưởi lát đá xanh với những hình chạm trổ tinh vi trên thân lò. Bức tường phía sau treo toàn kiếm và súng thời cổ, ước chừng có đến hàng trăm cái. Trên bàn làm việc rộng thênh thang là một bức tượng một con đười ươi bằng đá cẩm thạch màu xám đang chăm chú ngắm nghía trong tay một cái sọ người. Ba bức tường còn lại lát toàn sách trong những chiếc tủ gỗ quý đồ sộ. Tôi trộm nghĩ trong đầu, chắc nhiều cuốn sách ở đây chưa được sờ đến một lần. Lấy sách làm đồ trang trí có lẽ là cái mốt lâu đời nhất của giới trí thức châu Âu. Góc nhà kê một chiếc đàn piano trông cổ kính, hộp đàn để ngỏ, trên kệ còn một bản nhạc mà từ chỗ tôi ngồi vẫn có thể đọc được hàng chữ “Bốn mùa” của Traikovsky, chứng tỏ mới đây không lâu có ai đó trong nhà đã chơi. Một bức chân dung khá lớn của người ốm lồng trong khung nạm vàng treo trên bức tường phía sau bàn làm việc. Nhìn xuống chúng tôi là một người phụ nữ còn trẻ, trông có nét Do Thái với chiếc mũi khá thô so với khuôn mặt nhỏ nhắn, đôi mắt nghiêm nghị, màu đen như mắt người phương Đông.
- Tôi hai đêm nay thức trắng bên giường bà ấy - người đàn ông phá tan bầu không khí im lặng trong phòng. Ông rót nước ra mời tôi và ông bác sĩ rồi nói tiếp - Tuần trước vợ tôi vẫn khỏe mạnh bình thường, vẫn chơi ten-nít, bơi thuyền ngoài hồ, chiều chiều vẫn chơi đàn... Thế mới biết con người ta không biết thế nào mà nói trước. Lạy Chúa, may ra y học phương Đông có thể cứu được vợ tôi khỏi cơn tai biến này - nói đến đây, chủ nhân đứng lên đi sang phòng bên để lại tôi và tay bác sĩ. Vốn mất cảm tình vì cái nhìn khinh khỉnh kiêu căng của anh ta, tôi đứng dậy và bước lại bên các tủ sách, vừa muốn xem đó là những loại sách gì, nhưng cơ bản là để tránh bắt chuyện. Hình như cảm nhận được thái độ bất cần của tôi, tay bác sĩ lại lên tiếng trước:
- Các ông sang đây lâu chưa?
- Cũng chưa lâu - không thèm quay đầu lại, tôi trả lời cộc lốc.
- Việt Nam có đúng là nước đã đánh nhau với Mỹ không?
- Và thắng Mỹ.
- Ông nghĩ thế à?
- Hồi phổ thông ông có học lịch sử thế giới không?
- Tôi học dốt môn này. Tôi hiểu nôm na, đó là cuộc chiến giữa hai hệ thống xã hội, giữa hai hệ tư tưởng mà Việt Nam là bãi chiến trường.
Câu trả lời kiểu này tôi đã từng được nghe vài lần. Đối lại, tôi luôn sử dụng một câu: “Thì chính các ông cũng không tránh được hai cuộc đại chiến thế giới đó thôi. Và còn trong tương lai nữa, khó mà nói trước được”. Muốn hay không, cảm giác khó chịu vẫn ấm ách trong lòng. Tôi định mở mồm đốp chát lại thì cánh cửa phòng bật mở. Chủ nhà bước vào, ôm theo một chồng các ca-táp giấy. Ông ném nó lên bàn và nói trống không:
- Giờ phút này mà vẫn còn phải làm việc. Đã có kết quả gì chưa?
Tay bác sĩ nhún vai ra chiều không biết.
- Mới gần nửa tiếng đồng hồ, còn sớm mà - tôi nói. - Ngài có thể cho phép xem một số cuốn sách ở đây không?
- Ồ, tất nhiên rồi. Tất cả chỗ sách này là của hồi môn của vợ tôi đấy. Tôi làm gì có thời gian đâu mà đọc. Muốn đọc chắc phải đợi đến khi về hưu. Anh bạn trẻ cứ tự nhiên!
Tôi cắm cúi lật giở những trang sách của cuốn “Nguyên nhân sự tan rã và suy sụp của Đế quốc La Mã” của Gibbon. Tay bác sĩ riêng ngả người ra thành ghế, mắt nheo nheo nhìn lên trần nhà, cặp kính trắng vắt ngang qua trán. Chủ nhà dí sát mắt xuống chồng tài liệu để trên bàn, tay phải ông ta sờ soạng tìm bút trên chiếc giá để ngay trước mặt. Một con ong lạc vào phòng cứ dúi đầu kêu ri ri một cách ngu xuẩn vào tấm cửa kính càng làm cho không khí chờ đợi thêm căng thẳng.
21
Tôi không muốn đi quá sâu vào lĩnh vực y học mà mình hoàn toàn xa lạ, nhất là lại vào Đông y - nơi mà mọi khái niệm về con người của Tây y được nhìn từ một góc độ hoàn toàn khác, mang tính trừu tượng huyền học hơn. Nhưng chỉ sau ba lần châm cứu và bấm huyệt, bà vợ của ông nghị sĩ Fadman Nikolaievich đã nói được và đi lại gần như bình thường. Ngày nào hai chúng tôi cũng đến vào tầm buổi chiều. Công việc chữa trị kéo dài trong khoảng một tiếng đồng hồ. Liệu trình, theo như ông Hiếu nói, khoảng nửa tháng. Ngôi nhà bí ẩn đó trở nên quen thuộc đối với tôi. Chủ nhân đã chuyển đổi cách xưng hô thân mật hơn và trong khoảng một tiếng mỗi ngày đó, khi ông Hiếu bận điều trị, hai chúng tôi có dịp trao đổi trò chuyện nhiều vấn đề. Hóa ra, ông Fadman là một nhà sưu tầm tranh và ốc biển có tiếng. Trong một căn phòng rộng, sát phòng ngủ của hai vợ chồng ông, treo toàn các loại tranh cổ quý giá, tranh của các họa sĩ Nga, Ucraina và Do Thái nổi tiếng. Nền nhà của phòng tranh này là một bể nước nhân tạo bằng kính dầy với hơn hai ngàn con ốc từ khắp các châu lục trên thế giới. “Đây là bộ sưu tầm về ốc biển phong phú nhất trên toàn Liên xô cũ” - ông Fadman không giấu được giọng tự hào nói. Tôi cảm thấy ông có nét gì đó rất trẻ thơ khi ngắm nghía, nâng niu trên tay những chú ốc đủ các hình dạng, màu sắc. Cả hai chúng tôi đều phì cười khi ông đưa cho tôi xem một khúc xương dài khoảng bốn chục phân và hỏi:
- Cậu có biết đây là cái gì không? - rồi không cần đợi tôi trả lời, ông nói luôn - Dương vật của con hải mã trên Bắc cực. Nó là động vật duy nhất không biết thế nào là căn bệnh liệt dương. Mình mà có được một cái như thế này thì phải biết!
Nhưng, cũng có khi chúng tôi ngồi trong phòng bếp xem ti vi và nhấm nháp những quả anh đào chín mọng do cô giúp việc mang từ ngoài vườn vào. Chính vào một hôm như vậy, trên ti vi chiếu một chương trình hòa nhạc có sự tham gia của nữ nghệ sĩ violon Tachiana. Tôi không khỏi tự hào nói với ông Fadman:
- Mẹ của Tachiana là người Việt Nam đấy, ông có biết không?
Ông Fadman gật đầu và im lặng một lát rồi nói:
- Cô ấy có quen biết vợ tôi, đã đến đây chơi mấy lần rồi.
Tôi nhớ đến chiếc piano còn để ngỏ ở bên ngoài phòng khách.
- Chắc bà nhà cũng là nhạc sĩ?
- Vợ tôi trước dạy nhạc trong trường phổ thông. Ông cụ thân sinh là một nhạc sĩ nổi tiếng của Liên Xô cũ. Chiếc đàn ở phòng khách có tuổi đời gần một trăm năm rồi mà tiếng vẫn tốt. Con gái tôi đang học piano tại Anh quốc.
Hai chúng tôi im lặng ngồi nghe, thỉnh thoảng ông Fadman lại nhỏm người dậy với tay nhón một quả anh đào bỏ vào mồm một cách khoái trá. Tôi chợt nhớ tới một nhân vật của nhà văn Chekhov cả đời chỉ có độc một ước mơ duy nhất là được ăn quả anh đào lấy từ vườn nhà mình.
- Một nghệ sĩ tuyệt vời! - ông thốt lên khi chương trình kết thúc.
- Cô ấy hiện nay đang gặp khó khăn. Trên báo và truyền hình đưa tin, hình như có liên quan tới vụ tự sát của ông Thị trưởng - tôi nói.
Thật bất ngờ đối với tôi. Ông Fadman đứng dậy đi ra ngoài. Một phút sau, ông quay lại với một tập giấy, ngoài bìa đề chữ: “Hồ sơ số 003”.
- Người Việt Nam đã cứu vợ tôi. Không có gì bí mật với các bạn cả. Cậu có thể ngồi đây đọc tập tài liệu này thật thoải mái. Nó đáng đọc hơn nhiều cuốn sách vẫn được xem là kinh điển.
Nói đến đây, ông đặt tập hồ sơ xuống mặt bàn, bên cạnh đĩa anh đào đã vơi đi một nửa và bước ra ngoài. Tôi bàng hoàng cầm tập giấy lên và không tin ở mắt mình. Đây chính là bản tự khai của Thảo. Tôi nhận ra ngay nét chữ nhỏ hơi nghiêng nghiêng của cô. Tôi cảm thấy cay cay nơi sống mũi. Hít một hơi thật sâu để lấy lại bình tĩnh, tôi như một kẻ bị săn đuổi chạy đến sát mép nước, chẳng còn đường thoát nào khác là lao xuống dòng nước đang chảy xiết đầy bất trắc và bắt đầu đọc.
22
“Khi đặt bút viết những dòng này, tôi cũng xin nói thẳng một điều: trong huyết quản tôi có hai dòng máu, vừa châu Âu vừa châu Á. Có thể từ đây, nó là khởi điểm để tạo nên tính cách, diện mạo cũng như số phận của tôi. Tôi không kết tội những người đã sinh ra tôi, mà trái lại rất biết ơn mặc dù tôi không biết mặt cha mẹ mình. Trên đất nước này, có hàng ngàn đứa trẻ có tuổi thơ giống như tôi, song phần đông đều dẫn đến con đường thất học, nghiện ngập, đĩ điếm và tù tội. Nếu như tôi không rơi vào trong số đó (điều này chỉ có thể giải thích bằng sự may rủi) là vì trên đường đời cũng như con đường âm nhạc, tôi may mắn gặp được những con người tốt bụng cưu mang, nâng đỡ. Dù ở bất cứ vị trí nào, trên đài vinh quang của danh vọng hay như hiện nay, đang ngồi trong một căn buồng rộng bốn mét vuông, với những điều kiện sinh hoạt tối thiểu nhất, tôi vẫn phải cúi đầu chịu ơn những con người đó. Những suy nghĩ và hành động của tôi luôn luôn bị chi phối bởi những ký ức về quá khứ, của những gì tôi đã từng nếm trải. Những hành động mà tôi làm đó đều xuất phát từ lợi ích của chính bản thân mình, của những người thân và của đất nước mà tôi thuộc về nó. Tôi không tham gia hoạt động chính trị, nhưng điều này không có nghĩa là tôi không có những chính kiến, nhận định riêng của mình về các sự kiện chính trị đang xảy ra xung quanh, đang có tác động không trực tiếp thì gián tiếp lên cuộc sống của riêng tôi. Tôi quan tâm tới các vấn đề của lịch sử Ucraina và thế giới bởi vì nghệ thuật của tôi, những giá trị mà tôi theo đuổi nằm trong sự tương hỗ với môi trường này, với con người và đất nước này. Tôi cũng có cách nhìn riêng của mình về cuộc bầu cử vừa qua mà người ta vẫn gọi là “Cuộc Cách mạng Cam”. Đây là cuộc tranh giành quyền lực của những kẻ giàu nhằm bảo vệ lợi ích của gia đình và đẳng cấp của mình, đứng sau đó là lợi ích của tư bản nước ngoài. Tôi không cho rằng trong cuộc Cách mạng này, những khẩu hiệu “dân chủ”, “vì nhân dân” của cả hai phe là vì nhân dân đang bị bần cùng hóa. Đó là một trò chơi tung hứng của những kẻ có tiền trên đầu nhân dân mà thôi. Ở bất kỳ thời đại nào, nhân dân - một tập hợp người nhập nhòa, không diện mạo, không danh tính - dễ trở thành một đàn cừu ngoan ngoãn bị kẻ khác xô đẩy vì những mục đích của cá nhân họ mà thôi.
Chính dung mạo và tài năng đã đẩy tôi tới gần, thậm chí rất gần những con người mà ta vẫn xem là “nắm vận mệnh nhân dân”. Họ thường xuyên xuất hiện trên truyền hình, ăn mặc đạo mạo, nói năng toàn những từ ngữ trang trọng, văn hoa. Nhưng trong cuộc sống thực, nhiều người ích kỷ và thô tục đến bất ngờ. Một điều tự bản thân tôi xem đây là phát hiện của riêng mình: họ rất khinh bỉ và coi thường cuộc sống của người dân thường. Tôi đã trót bước vào vòng xoáy đó và bị nó cuốn đi. Nhưng tôi cũng đã nhanh chóng hiểu ra ngay luật chơi của giới được gọi là “quí tộc” này. Ở đâu cũng là cạm bẫy, ở đâu cũng là mua bán mặc cả. Nếu mình không muốn bị người ta dẫm đạp lên, rồi đến một ngày nào đó sẽ bị quẳng ra khỏi sân chơi như một thứ giẻ rách thì chỉ có cách bắt những người khác chơi theo luật của mình. Tôi bắt đầu cuộc chơi khi trở thành tình nhân của ông Kovalenko vào năm 16 tuổi. Ông ấy lúc đó là quận trưởng quận Lênin, nơi tôi đang theo học tại một trường năng khiếu âm nhạc. Ở vào tuổi đó, tôi tự cảm thấy mình già dặn và hiểu đời hơn những đứa bạn cùng lớp. Bởi vậy, đám bạn trai của tôi thường lớn hơn tôi nhiều tuổi. Ngay từ khi còn nhỏ, tôi đã cảm nhận được sức mạnh của sắc đẹp mà trời phú cho mình. Đám con trai đã đâm chém nhau vì tôi. Tôi không biết mặt mẹ tôi, bà cũng không để lại cho tôi một tấm hình nào, song tôi nghĩ bà cũng phải là một người phụ nữ có nhan sắc. Cuộc đời của những người phụ nữ có sắc đẹp không mấy khi được êm đềm, yên ả. Cây muốn lặng nhưng gió chẳng đừng. Đúng là như vậy. Vào tuổi 14, đi ngoài đường tôi đã cảm nhận thấy những ánh mắt thèm khát của đám đàn ông nhìn xoáy theo mình. Trên các phương tiện công cộng, họ cứ sán đến sát tôi tìm cớ này cớ khác để động chạm vào người tôi, ngay cả khi có các bà vợ đứng bên cạnh. Một lần tôi đứng chờ xe bên đường, một anh lái xe phóng ngang qua mải ngoái lại nhìn tôi đã tông xe vào cột điện. Tôi cũng nhận được cả những ánh mắt long lên sòng sọc của các bà, các cô mà thoạt tiên tôi cảm thấy sợ hãi, trốn chạy những ánh mắt đó. Song, đến tuổi 15 thì tôi đã hãnh diện ngẩng cao đầu bước thẳng không thèm để ý. Trong người tôi trỗi dậy một tình cảm vừa kiêu hãnh vừa khinh bỉ họ.
Một hôm, nhà trường tổ chức hòa nhạc nhân dịp kỷ niệm ngày sinh của nhạc sĩ thiên tài Moza. Khách mời rất đông. Tôi cũng lên biểu diễn, nhưng tiết mục của tôi lại gần cuối cùng. Biểu diễn xong, đang còn cho đàn vào hộp ở bên cánh gà sân khấu thì tôi thấy bà hiệu trưởng chạy xồng xộc đến với vẻ mặt lo lắng. Bà nói tôi lên ngay phòng giám hiệu có việc quan trọng. Tôi cũng bất ngờ và lo lắng hấp tấp đi theo bà dọc theo dãy hành lang có các rèm cửa bị gió thổi tung lên. Khi bước vào, tôi thấy một người đàn ông khoảng ngoài bốn mươi, thắt ca-vát màu đỏ rất hợp với bộ com-lê đắt tiền và mái tóc lốm đốm những sợi bạc nhưng được uốn chải công phu. Tôi đang còn bối rối chưa biết xử lý ra sao thì bà hiệu trưởng lên tiếng, giọng rõ ràng là hồi hộp, hai tay chắp trước ngực:
- Thưa anh, đây là học sinh Tachiana, người đã chơi bản Polone đó ạ.
- Cháu chơi rất tuyệt - ông ta nói và chìa tay chỉ vào chiếc ghế đối diện - Cháu ngồi xuống đây.
Lúc tôi lấy lại được bình tĩnh và từ tốn trả lời các câu hỏi của ông ta về gia đình, bố mẹ, cuộc sống... thì bà hiệu trưởng đã biến ra từ lúc nào, trong phòng chỉ còn lại tôi với ông Kovalenko. Ông bảo cứ gọi ông là Vitia cho thân mật. Ông lắc đầu ra vẻ ái ngại về hoàn cảnh riêng của tôi.
- Chú muốn cháu đến dạy và học đàn cùng với con gái chú ở nhà, có được không? Con gái chú nhỏ hơn cháu một tuổi.
- Hiện nay cháu rất bận, mẹ nuôi cháu đang ốm nặng - tôi lập tức trả lời, không đắn đo suy nghĩ.
- Mình cháu thì giúp được gì? Cháu cứ đến chỗ chú, chúng ta sẽ tìm cách giúp mẹ cháu, như vậy có tốt hơn không?
- Chú để cháu suy nghĩ ít hôm đã.
Tôi nói thế thôi nhưng trong bụng đã quyết định đồng ý rồi, bởi hoàn cảnh của tôi lúc này cũng rất là bi đát. Mẹ nuôi tôi ốm đã gần một tháng nay. Hai chúng tôi sống nhờ vào tiền trợ cấp eo hẹp, trong khi đó giá cả thực phẩm, tiền nhà, tiền lò sưởi, tiền điện tăng rất nhanh. Quần áo tôi mặc trên người đều là thứ quần áo cũ secondhand được hai mẹ con sửa lại theo các mẫu trên tạp chí. Có lần túng thiếu quá, cả hai mẹ con đã phải xuống tàu điện ngầm kiếm sống bằng cách: tôi kéo đàn, còn mẹ Vera đi đằng trước đệm bằng đàn ghi-ta và hát. Hai chúng tôi cũng kiếm được kha khá vì tôi biết nhiều quý ông nhìn thấy tôi đã không ngần ngại đặt vào trong chiếc túi tôi khoác bên vai những tờ giấy bạc khá lớn. Nhiều người hỏi thẳng giữa đám đông trong toa tàu điện ngầm xem tôi có bán thân không với giá rất cao. Có một người đàn ông nói với mẹ Vera rằng: bà có đứa con gái xinh như thế kia, thiếu gì nơi có thể kiếm được việc làm. Ông ta để lại địa chỉ và nói cứ đến ông ta sẽ giúp đỡ. Hai mẹ con đắn đo mãi cuối cùng không đi vì sợ có mưu mô gì đấy sau khi xem trên báo và truyền hình những vụ lừa đảo của các công ty buôn phụ nữ sang các nước Tây Âu làm nô lệ tình dục. Công việc làm thêm này tuy khá vất vả nhưng cũng khiến cho cuộc sống của hai mẹ con khấm khá lên đôi chút. Chúng tôi mua được chiếc ti vi màu thay thế cho chiếc từ thời hai ông bà mới lấy nhau. Nhưng cũng chính vì công việc này mà mẹ Vera phải vào nằm viện. Hôm đó là ngày chủ nhật, hai mẹ con dậy từ rất sớm để chuẩn bị cho một ngày lao động vất vả của mình. Tôi lấy sơ đồ hệ thống tàu điện ngầm của thành phố K. ra và đánh dấu những ga đông dân cư mà những tuần trước chúng tôi chưa tới. Chúng tôi ăn sáng thật no ở nhà để không phải chi tiêu những khoản lặt vặt trên đường. Lần nào cũng vậy, trước khi bước chân ra khỏi nhà, mẹ Vera lại đứng cầu nguyện trước ảnh thánh một cách thành kính. Chúng tôi đi bộ ra bến tàu điện ngầm gần nhất, bến Ga phía Nam, để tiết kiệm tiền đi xe buýt. Chỉ khi nào trở về, lúc đó đã thấm mệt, chúng tôi mới cho phép mình đi xe công cộng. Hôm đó, chúng tôi thu hoạch được rất khá, có lẽ vì là một ngày lễ tôn giáo của đạo Chính thống. Đến trưa, tôi nhẩm tính đã được một số tiền bằng cả tuần trước. Tôi nói với mẹ Vera rằng hôm nay nên về sớm thôi, hai mẹ con tạt vào cửa hàng hạ giá mua ít quần áo. Mẹ Vera bực mình quát lên, mắng tôi là “tư sản” chưa làm đã đòi hưởng thụ. Chưa bao giờ mẹ nặng lời với tôi như vậy. Quả là đến cuối giờ chiều thì chiếc túi đeo bên vai đã khá nặng vì những đồng tiền konek bằng đồng. Hai chân tôi mỏi nhừ, các ngón tay bấm phím như tê dại đi. Giọng mẹ Vera cũng đã khản. Hai chúng tôi bước ra và ngồi nghỉ trên sân ga. Tôi chuyển cho mẹ Vera túi tiền và bảo phải giữ cẩn thận vì đây là một ga vắng vẻ ít người xuống. Tôi vừa nói chưa dứt lời thì từ phía đoàn tàu vừa đi khỏi, bốn gã thanh niên phăm phăm chạy tới. Hai mẹ con kêu thét nhưng trên sân ga hầu như không có một mống người. Một bà già ngồi ở chiếc ghế cách đó không xa chẳng biết làm gì hơn cứ đưa tay lên làm dấu thánh lia lịa.
“Đúng hai mẹ con nó đấy”, trong cơn hoảng loạn, tôi nghe được một đứa thốt lên. Chúng xông vào hai mẹ con, chân đá tay đấm. Tôi ôm chặt hộp đàn chỉ sợ bị đập hỏng. Chính nhờ hộp đàn đó mà tôi cũng đỡ được những cú đấm trực diện. Biết túi tiền ở trong tay mẹ Vera, chúng vây cả lại và đánh bà vô cùng dã man. Tôi mấy lần lao vào cứu bà đều bị một thằng cao to co cẳng đạp ngã ngược trở lại. Mẹ Vera nằm sấp đè lên túi tiền, nhưng cuối cùng cũng bị chúng đánh ngất đi và túi tiền tuột khỏi tay. Cả bọn nhảy lên đoàn tàu lúc đó vừa lao tới. Một thằng trong bọn nói với lại bằng một giọng hăm dọa: “Biết thân thì đừng có bén mảng đến địa phận của chúng tao kiếm ăn!” Tôi gào lên kêu cứu nhưng đây là bến gần cuối nên các toa đều trống vắng. Vài người ló đầu ra nhìn qua cửa sổ vẻ sợ sệt. Tôi chạy vội lại bên mẹ Vera đang nằm bất tỉnh trên sàn, mặt mày bầm tím và máu mồm máu mũi chảy ướt đẫm cả chiếc áo đang mặc trên người. Mãi gần một tiếng sau mới gọi được xe cấp cứu.
Cả tuần đó, tôi bỏ học ở luôn trong bệnh viện để chăm sóc mẹ.
Tôi giấu không nói cho mẹ biết về lời đề nghị của ông quận trưởng. Có lẽ, như thế thì tốt hơn. Hai hôm sau, đang trong giờ học môn Lịch sử âm nhạc, cô thư ký của bà hiệu trưởng gọi tôi lên nghe điện thoại. Thoạt tiên, tôi tưởng có chuyện gì xảy ra trong bệnh viện với mẹ Vera nên quáng quàng chạy, tim đập như trống trận. Nhưng vừa áp chiếc ống nghe màu đen lạnh toát vào tai, tôi nhận ra ngay giọng của ông Kovalenko.
- Thế nào, mẹ cháu đỡ chưa?
- Cũng đỡ hơn ạ.
- Chú chờ câu trả lời của cháu đây.
- Cháu đồng ý.
- Hết giờ học, chú sẽ cho xe đến đón cháu ở cổng trường nhé. Tạm biệt cháu.
Đó chính là tòa nhà mà trên đường đi học tôi vẫn thường đi qua. Đã có lần tôi dừng lại khá lâu để được chiêm ngưỡng đàn chó tuyệt đẹp đùa giỡn nhau trong sân. Tòa nhà ba tầng được xây toàn bằng gạch đỏ, có tường cao bao quanh. Cánh cửa sắt sơn màu xám có tấm biển đề số nhà và tên phố màu trắng. Phố Công viên tháng Năm, đối diện với viện bảo tàng Lịch sử quân đội. Tôi bước xuống xe và hiểu rằng mình đang ở trong một thế giới hoàn toàn khác với thế giới phía bên kia cánh cổng sắt tự động. Một bà già ăn mặc gọn gàng sạch sẽ dắt tay tôi vào phòng khách và bảo tôi ngồi chờ trên chiếc ghế xa-lông da màu trắng. Tôi bẽn lẽn ngồi xuống, cố gắng đặt hộp đàn sao cho thật êm. Một cảm giác xấu hổ khiến tôi nóng bừng hai má khi nhìn xuống đôi giày đã cũ đi dưới chân và bộ váy áo bằng loại vải rẻ tiền do mẹ Vera tự may lấy, chúng tương phản một cách thảm hại với những đồ vật xung quanh. Tôi lóng nga lóng ngóng đứng ngồi không yên. Nhưng ngoảnh sang bên phải, nhìn vào tấm gương lớn treo trên tường, tôi cảm thấy yên tâm hơn vì trong đó là một cô gái với đôi mắt đen to, làn tóc đen dày óng ả đổ dài xuống sát thắt lưng, một thân hình cao dong dỏng, cân đối đang ở vào tuổi dậy thì. Chính tôi cũng cảm thấy hài lòng với diện mạo của mình. Tôi giật mình vì cánh cửa lớn ngay sát tấm gương bật mở, ba chú chó khoang lốm đốm đen lững thững bước ra, đi sau chúng là một cô gái mà tôi đoán chắc là con ông quận trưởng. Khuôn mặt và dáng người của cô đúc khuôn bố, có lẽ chỉ có màu mắt xanh là không giống. Cô ăn vận theo kiểu cao bồi, đầu đội mũ phớt trắng, áo gi-lê da và quần bò bó chẽn.
- Tớ tên là Anjela, chúng mình ra ngoài vườn ngồi đi.
- Mình là Tachiana.
- Tớ biết rồi, ba đã nói từ mấy hôm trước. Đừng sợ, chúng không dám cắn nếu chưa có lệnh của mình đâu.
Hai chúng tôi ngồi lên trên chiếc ghế xích đu ngoài vườn. Ba chú chó nằm phủ phục trên thảm cỏ xanh phía trước mặt, mấy cái tai khẽ xoay đi xoay lại. Bà già lúc nãy bưng đến cho chúng tôi một khay đầy hoa quả, bánh kẹo và nước giải khát. Đến lúc đó, tôi mới chợt nhớ ra rằng từ sáng đến giờ mình mới chỉ ăn một chiếc bánh rán nhân táo trong căn-tin trường. Bụng tôi sôi lên và nước miếng tứa ra trong mồm. Anjela bóc những thanh kẹo sô-cô-la và tung về phía ba con chó. Chúng nhảy lên trên không đớp gọn và giương những đôi mắt biết ơn của giống chó trung thành lên với chủ. Dưới ánh nắng ấm áp, chúng chậm rãi nhai kẹo và lim dim đôi mắt như mơ ngủ. Từ khóe mép của con chó nằm gần chúng tôi nhất nhểu ra một hàng dãi màu nâu nâu.
“Có lẽ, chi phí nuôi một con chó còn tốn hơn tiền sinh hoạt của hai mẹ con mình”, tôi thầm nghĩ trong bụng và một nỗi ghen tỵ dâng lên trong lòng khiến tôi cảm thấy khó thở. Nó làm nảy sinh trong tôi một câu hỏi đầu tiên: tại sao có những người giàu thế? Khi bước chân ra khỏi cổng, tôi cảm thấy toàn thân bải hoải vì những cảm xúc vừa trải qua trong ngôi nhà có cánh cửa sắt. Chiếc hộp đàn như xiết nặng bên vai, chiếc đế giày dán đi dán lại mấy lần lại bong ra khiến tôi đi bước thấp bước cao thật khổ sở. Chính lúc này đây, tôi mới cảm thấy thấm thía sự côi cút của mình. Trong bóng tối của con đường từ bến tàu điện về nhà, tôi bật khóc thút thít, những giọt nước mắt tủi thân, oán giận cho số phận. Hình như ông trời lúc đó cũng động lòng trắc ẩn nên cũng nhỏ xuống dăm ba hạt mưa lác đác, lộp bộp rơi trên những tàu lá hai bên đường. Nhưng ở đâu đó, trong một ngõ ngách sâu thẳm của tâm hồn, một ngọn lửa chợt bùng lên, cũng có thể là kết quả của sự cọ xát giữa những cảm xúc mãnh liệt khác nhau, nhưng cũng có thể đó là tiếng gọi của bản năng sinh tồn trỗi dậy: đó là ngọn lửa của ý chí vươn lên, một khát vọng không chịu thua kém. Tôi lẩm nhẩm thề thành tiếng rằng, bằng âm nhạc, tôi sẽ giành được sự hâm mộ của hàng triệu trái tim.
Trong khi sắp xếp đồ ăn gồm mấy củ khoai luộc, ít dưa chuột muối, ít mỡ muối vào túi để đem vào cho mẹ Vera, tôi rút từ trong hộp đàn ra gói bánh kẹo mà Anjela gói cho tôi trước lúc ra về. Không biết nói với mẹ Vera thế nào về chỗ quà này đây? Lấy tiền đâu ra mua? Cuối cùng, tôi quyết định không mang vào hết ngay một lúc mà chia nhỏ ra đem tới dần dần.
Những đồng tiền khá hậu hĩnh tôi kiếm được bằng việc dạy violon tại nhà ông quận trưởng cũng không cứu được mẹ Vera. Mẹ ra đi một cách êm ả sau khi yêu cầu tôi chơi lại cho bà bản nhạc ông Xergay đã sáng tác trong nhà tù để tặng bà nhân ngày sinh nhật. Khi tôi ngừng đàn, quay đầu nhìn lại thì trên màn hình điện tim chỉ còn là một đường vạch ngang câm lặng. Khuôn mặt mẹ hết sức bình thản, trong tay còn nắm chặt tấm ảnh đã ngả màu vàng của ông Xergay lồng trong chiếc lắc hình bầu dục.
Cuộc đời tôi lật sang một chương mới.
Một chương mà chỉ có tôi là nhân vật chính. Tôi không ngần ngại đặt tên cho nó là “Lao động và lao động nghệ thuật”. Tôi hầu như lảng tránh sự cọ xát với thế giới bên ngoài. Về nội tâm, tôi bỗng trở thành người lớn. Tôi sống trong cô đơn và cũng trưởng thành trong cuộc sống nội tâm đó. Những ca khúc đầu tiên ra đời. Trong chương này, nếu có một sự kiện bên ngoài âm nhạc đáng để tôi nhắc đến thì đó là tôi đã không còn là một thiếu nữ trinh trắng nữa. Tôi đã trở thành đàn bà. Đối với tôi, nó không được che phủ bởi một cuộc tình lãng mạn như ta vẫn thường thấy mà trần trụi, thô thiển và dung tục, khiến cho mỗi lần nghĩ lại tôi không khỏi rùng mình.
Hôm đó, trời bão tuyết mặc dù lúc trưa trời vẫn trong trẻo. Mấy con chó của Anjela nằm phủ phục trước cánh cửa kính cao, rộng, thông ra ban-công. Những chiếc mũi ươn ướt, nóng ấm của chúng hít hít vào mặt kính phủ lớp băng tuyết như những cánh hoa và làm tan băng thành những lỗ tròn tròn, cái thấp cái cao. Những ánh mắt hấp háy của chúng ngắm nhìn những bông tuyết trắng bay vèo vèo qua những ô cửa sổ tròn con con đó kèm theo những tiếng rít của gió, lúc to lúc nhỏ.
Cánh cửa phòng bật mở. Ông Kovalenko ló đầu vào. Có lẽ ông đang đọc sách hay tài liệu gì đó, trên sống mũi vẫn còn đeo chiếc kính gọng trắng tinh. “Ông đeo kính râm có lẽ hợp hơn”, không hiểu sao trong đầu tôi lại nảy ra ý nghĩ đó khi quay lại nhìn.
- Chú sẽ đưa cháu về tận nhà, nếu cháu không muốn bị đóng băng ở ngoài đường.
Đó chính là điều mà tôi vẫn lo sợ. Chính vì nỗi sợ đó mà tôi chưa bao giờ mời Anjela đến nhà mình chơi, mặc dù chúng tôi đã khá thân nhau. Tôi viện đủ các lý do để che giấu như che giấu một khuyết tật đáng xấu hổ trên cơ thể của chính mình. Đó là nỗi sợ những con người thuộc thế giới này nhìn thấy sự nghèo nàn đến thảm hại của cái nơi mà tôi đang sống. Nếu nói không quá lời, nó còn kém xa nơi chứa những dụng cụ làm vườn của gia đình này. Tôi nhớ đến cánh cửa ọp ẹp của ngôi nhà, những bậc thang sụt lở và ẩm thấp dẫn vào hai căn buồng nhỏ bé. Một buồng vừa làm nhà bếp, phòng ăn và một buồng để ngủ. Nhà vệ sinh ở ngoài sân, mà vào thời tiết này chắc tuyết đã chất thành đống cao xung quanh. Tôi cảm thấy khuôn mặt mình nóng bừng vì xấu hổ vì chưa nghĩ ra kế thoái thác.
- Đúng đấy! - Anjela nằm ườn ra chiếc ghế xa-lông bọc da đen ngay sát cạnh chiếc lò sưởi kiểu Hy Lạp đang cháy đỏ, đầu gối lên một con gấu nhồi bông to tướng. - Mình hôm nay nhức đầu quá, chẳng muốn học hành gì cả, nghỉ sớm thôi.
- Cháu tự đi về được mà - tôi cố chống chế, trong đầu mường tượng ra thái độ của ông Kovalenko sẽ thay đổi ra sao khi đến nhà tôi. Tôi đã một lần tình cờ nghe lỏm được ông nói với bà vợ vừa già vừa xấu của ông ở trong bếp sau khi trở về từ một chuyến viếng thăm nhà tế bần của thành phố: “Tôi chắc không ăn được cơm mất vì buồn nôn, cũng chỉ vì cái ghế ông nghị tôi mới phải nhắm mắt nhắm mũi ôm hôn cái bà già hôi hám đó cho bọn phóng viên nó chụp ảnh, ghi hình”.
Đứng trên bậc thềm nhà, tôi một tay giữ hộp đàn, một tay giữ chặt cổ áo vì gió thổi lạnh cả người. Những bông tuyết quất vào mặt buốt như kim châm. Bầu trời tối sẫm lại. Mấy ngọn đèn ở ngoài cổng trở nên leo lét, lúc ẩn lúc hiện trong vòng xoáy của tuyết và gió. Ngay lúc đó, từ phía nhà xe có tiếng động cơ rồ lên và hai ngọn đèn pha màu vàng nhạt dài loằng ngoằng trong khu sân rộng, hắt bóng những cây thông phủ đầy tuyết lên bức tường hàng rào đối diện. Tôi chưa kịp bước xuống mấy bậc thang trơn nhãy thì chiếc xe đã xịch đỗ ngay sát bên cạnh. Cửa bật mở. Tôi chẳng biết nói gì hơn là im lặng ngồi vào xe, ngay bên cạnh người lái. Ông Kovalenko phủi đám tuyết bám trên vai, trên mũ tôi và bảo tôi thắt dây an toàn lại. Tôi làm theo như một cái máy và trong đầu đang tìm cái nơi mà tôi sẽ yêu cầu ông đỗ xe ở đó để tôi tự đi bộ vào nhà mình. Chiếc xe chậm rãi rẽ ra con đường lớn, mặt kính trước đầy các vết bùn đất và tuyết khiến ông phải mở thanh gạt. Một lát sau, tôi cũng cảm thấy không đến mức phải lo lắng đến như vậy. Trong suốt thời gian tôi giúp con ông học đàn, ông luôn tỏ ra trìu mến và ân cần đối với tôi. Đêm đầu tiên sau khi chôn cất mẹ Vera, ông đã bảo tôi ngủ lại với Anjela. Cả gia đình ông đối với tôi như con cái trong nhà, song về phía tôi vẫn không thoát khỏi mặc cảm về vị trí xã hội và nguồn gốc xuất thân của mình. Có lẽ, người luôn canh chừng các chuẩn mực và ranh giới giữa tôi và gia đình ông là vợ ông. Bằng những ánh mắt, cử chỉ và những câu chuyện bóng gió, bà ta như muốn bảo rằng: cô và chúng tôi là hai thế giới khác nhau. Tôi cảm thấy ông Kovalenko rất sợ bà vợ già của mình. Điều này ảnh hưởng đến cô con gái, đi đâu, làm gì chỉ cần hỏi xin phép bà mẹ. “Mẹ bảo thế, mẹ đã cho phép, mẹ không đồng y.” là những câu nói cửa miệng của hai bố con. Lúc đó, tôi chưa hiểu được nguyên nhân sâu xa của cung cách đối xử như vậy, nhưng sau này, chẳng phải ai khác mà chính ông Kovalenko đã thổ lộ hết với tôi, chẳng khác nào xưng tội trước Chúa.
- Cho cháu xuống chỗ này, từ đây cháu tự đi bộ vào được mà.
Chiếc xe phanh két lại sát vỉa hè. Tôi cảm ơn và đẩy cửa bước ra.
Con ngõ nhỏ bị tuyết phủ trắng xóa khiến trời tối mà vẫn sáng nhờ nhờ. Một chiếc xe ngựa thồ ì ạch đi ngược trở lại. Đi được mấy bước, tôi cắm đầu cắm cổ chạy vì những ngọn gió buốt căm căm như kim châm vào mặt. Đến trước cổng nhà, tôi để hộp đàn dựa vào cánh cửa và loay hoay tra chìa khóa vào ổ. Có thể ổ khóa bị gỉ hơn nữa lại bị băng đóng nên mãi tôi vẫn chưa mở được. Hai tay đã bắt đầu lạnh cóng, nhưng lưng lại nóng toát mồ hôi.
- Để chú giúp một tay cho nào!
Tôi giật bắn mình quay đầu lại thì ông Kovalenko đã bước đến ngay sát sau lưng.
- Chú... chú chưa về ạ? - tôi lí nhí hỏi, mặt nóng bừng vì đột ngột rơi vào một tình huống mình không hề lường trước.
- Vị khách không mời còn tệ hơn cả thằng giặc Tarta.
Vừa nói, ông vừa tự tiện cầm lấy chiếc chìa khóa trong tay tôi và tra vào ổ. Tất nhiên là cửa mở ra ngay và ông nhấc hộp đàn lên:
- Chú chờ ở cháu một lời mời - ông nói và nhìn thẳng vào mắt tôi. Chẳng phải khó khăn lắm mới nhận ra điều gì ẩn chứa trong cái nhìn của ông. Tôi cảm thấy ớn lạnh sống lưng và hai chân như không còn tự chủ được nữa.
Cả hai cứ đứng im lặng như vậy có đến một phút. Cuối cùng, khó khăn lắm tôi mới thốt ra được mấy câu ấp úng, phần vì lạnh phần vị sợ.
- Chú vào đi!
Cánh cửa sau lưng chúng tôi đóng sập lại. Tôi thấy sởn gai ốc vì tiếng rít của ổ khóa bị gỉ. Xung quanh yên ắng, thấp thoáng xa xa có ánh đèn hắt ra từ cửa sổ của nhà hàng xóm. Đâu đó vọng lại tiếng nhạc rậm rịch. Một tiếng chó sủa vu vơ chới với trong tiếng gió rít u u trên ống thông hơi của lò sưởi.
Khi chỉ có hai người trong nhà, một đàn ông và một cô gái thì mọi rào cản xã hội không còn ý nghĩa gì nữa. Mọi ranh giới mà con người tự nghĩ ra để suy tôn bản thân như chức vụ, quyền lực, tiền tài... đều rơi tuột xuống. Đứng trước mặt tôi, ông Kavalenko trở nên luống cuống, nói năng ấp úng. Ông giúp tôi cởi chiếc áo khoác lông nặng trịch và hôn lên bàn tay còn lạnh cóng của tôi. Ông quỳ xuống dưới sàn nhà để giúp tôi tháo đôi giày đông và hôn lên bàn chân tôi. Có lẽ ông cũng chẳng để ý tới sự tồi tàn của đồ đạc trong ngôi nhà như tôi vẫn lo ngại.
- Hôm nay, tôi xin nói thẳng lòng mình với em, bởi vì chắc tôi không chờ đợi lâu hơn được nữa.
Thực sự là tôi bất ngờ trước giọng điệu và cách bày tỏ tỉnh cảm của ông. Vẻ đạo mạo hơi kênh kiệu biến đâu mất, thay vào đó là sự quỵ lụy và thành khẩn.
- Tôi thực sự yêu em khi nhìn thấy em lần đầu tiên tại buổi biểu diễn tại trường, em có nhớ không? Việc học đàn đó chỉ là cái cớ mà tôi nghĩ ra để được gần em. Tôi biết hoàn cảnh của em vì đó cũng chính là hoàn cảnh của tôi hơn hai chục năm trước đây. Một thằng nhà quê lên thành phố học, không người thân, không bạn bè. Chắc em cũng dễ dàng nhận ra một điều là tôi và vợ tôi sống không hạnh phúc. Tôi có thể che giấu điều này trước bàn dân thiên hạ, nhưng với em, tôi không có gì để giấu giếm cả. Bà ấy coi tôi chẳng khác gì một đồ vật trong nhà. Phải, nếu có khác thì đồ vật này buổi sáng cung cúc đi làm còn buổi chiều lại trở về đúng chỗ của nó. Đồ vật này phải làm theo những chỉ thị của bà ta: cần chơi thân với ai, cần phải đến thăm ai, biếu xén cái gì vào những dịp sinh nhật, lễ tết. Bà ta chẳng khác nào một mụ giô-kề ra roi quất vào lưng tôi trong cuộc chạy đua về địa vị và lợi nhuận gửi nhà băng nước ngoài.
Tôi bất chợt cảm thấy đáng thương con người đang quỳ trước mặt mình này. Tôi nhìn những giọt mồ hôi lấm tấm trên cái trán hói sớm của ông và bất giác đưa vạt áo lên lau. Ông xúc động quá bật khóc.
- Em có biết rằng tôi rất cô đơn không? Có vợ, có con, có địa vị tiền bạc, nhưng vẫn cô đơn vì với ai cũng phải mưu mẹo, đối phó. Người ta xúm lấy tôi, nịnh bợ tôi, tâng bốc tôi trên báo chí, truyền hình cũng chỉ vì mục đích cá nhân của mình, không vì tiền thì cũng vì địa vị. Tôi khát khao một tình cảm chân thật, một người bạn tri kỷ, một tình yêu để tôi có thể vì nó mà sống tiếp những năm tháng của cuộc đời mình. Tachiana, em có biết anh yêu em đến chừng nào không? Anh đã trở thành một cậu học trò si tình từ bao giờ mà cũng không hay. Mỗi khi em đến dạy đàn cho con gái anh, anh đều tìm cách này hay cách khác để được đến gần em, lúc thì mang nước vào thay cho bà phục vụ, khi lại sửa một cái gì đó vu vơ trong phòng thư viện của gia đình, nếu không thì anh cũng ngồi lì ở phòng bên cạnh, lắng nghe từng tiếng động vọng sang: tiếng em cười, tiếng em kể chuyện tiếu lâm, tiếng đàn của em. Nếu vợ anh có tình cờ bước vào thì anh lại giả vờ đang bận túi bụi với đống tài liệu đem từ cơ quan về, hay chúi mũi vào xem tờ báo cũ. Khi em về rồi, căn phòng vẫn còn vương vấn mùi nước hoa giản dị nhưng quyến rũ của em. Anh phải khó khăn lắm mới bước ra khỏi căn buồng đó được một khi chưa hít căng lồng ngực của mình hương thơm của em.
Tôi bảo ông đứng lên và đi vào bếp đặt ấm nước pha chè. Chiếc ấm xamôva sôi lên sùng sục. Hơi nước phụt ra phía trên nắp kêu lanh canh. Hai chúng tôi im lặng một lúc lâu.
- Anh ao ước được ngồi mãi như thế này, trong căn nhà này! - ông khẽ thốt lên.
Tôi đặt cốc nước chè lên trước mặt ông. Ông đột ngột chộp lấy cánh tay tôi và hôn tới tấp từ ngón út lên đến bờ vai. Tôi cảm thấy đầu óc chếnh choáng, bủn rủn chân tay, chỉ chống lại một cách yếu ớt. Ông Kovalenko ôm ghì lấy tôi, mạnh đến mức xô lệch cả bàn, cốc nước chè văng xuống dưới đất vỡ tan. Ông hôn như điên cuồng lên cổ lên mặt tôi.
- Anh khao khát em! - ông nói nhỏ qua hơi thở gấp và bế thốc tôi đặt lên chiếc đi-văng cũ kỹ để cạnh bếp lò. Tôi như người ngủ mơ. Tôi láng máng hiểu rằng cái điều mà mình vẫn hay nghĩ tới, vẫn tưởng tượng, sắp xảy ra. Tôi chỉ thấy nuối tiếc cho lần quan hệ đầu tiên này lại không phải là với người bạn trai mà tôi rất có cảm tình. Chuyện đó xảy ra vào hồi mùa hè. Tôi cùng các bạn trong lớp đi nghỉ hè ở Biển Đen. Ngay từ khi ngồi trên ô tô đi từ Simferopol ra Ianta, hai chúng tôi đã liếc mắt đưa tình đắm đuối. Cậu ấy tên là Roman, con trai của bà phụ trách đoàn học sinh đi nghỉ. Cậu là vận động viên môn trượt băng nghệ thuật. Đôi mắt cậu ấy xanh biếc như nước biển, tóc màu vàng óng ả để xõa xuống hai vai. Tôi chủ động làm quen bằng cách nhờ cậu mang hộp đàn từ ô tô vào khu nhà nghỉ. Tối hôm ấy, chúng tôi đã nắm tay nhau đi dạo dọc bãi biển. Những con sóng sủi bọt xóa nhòa đi dấu chân trần của chúng tôi trên cát. Nụ hôn đầu tiên không cưỡng lại được đượm hương vị mặn nồng của gió biển. Roman rất thích hôn lên chiếc bớt màu hồng hồng trên cổ tôi. Hai cơ thể trẻ trung đầy sức sống nóng ran lên trong những cái vuốt ve nồng nàn. Những ngày phơi nắng, tắm biển tiếp theo lại càng làm cho chúng tôi trở nên gắn bó hơn về thể xác và tâm hồn. Ở mọi nơi, mọi lúc, chúng tôi đều tìm cách gần gũi và đụng chạm nhau. Trong lúc xếp hàng lấy đồ ăn tại căn-tin, hai tay chúng tôi tìm lấy nhau trong cái xiết chặt đến nóng ran. Tại rạp chiếu phim, chúng tôi ngồi hàng ghế cuối cùng để được tự do hôn nhau, chu du đến những miền đất lạ đầy hấp dẫn. Khi rạp chiếu bật đèn sáng, hai chúng tôi bước ra ngoài và cùng cười phá lên vì chẳng ai nhớ nội dung bộ phim nói gì. Kỳ nghỉ hè tưởng như quá ngắn ngủi. Mới loáng một cái mà đã sắp đến ngày phải trở về thành phố K. bụi bặm, nhốn nháo. Chiều hôm đó, mọi người ra biển hết. Hai chúng tôi rủ nhau ở lại trong căn phòng trên gác năm có cửa sổ trông ra biển. Ánh nắng chiếu cả ngày khiến căn phòng ngột ngạt, lại còn bị đám ruồi quấy nhiễu vì trong phòng vẫn còn nồng nặc mùi dưa bở. Chiếc giường cá nhân quá nhỏ khiến chúng tôi bị ngã lăn xuống sàn trong một nụ hôn say đắm. Tôi trải chiếc khăn tắm rộng có hình những cánh buồm đỏ thắm lên sàn nhà và nằm xuống để cho Roman cởi từng chiếc cúc trên chiếc váy in những bông hoa cúc màu tim tím. Cởi đến đâu, cậu lại đặt môi hôn đến đó. Chiếc cúc cuối cùng bật ra thì cánh cửa phòng chợt mở tung. Đứng trong khung cửa là bà mẹ của Roman với nét mặt mà tôi không bao giờ quên được. Sự hiện diện của bà đặt dấu chấm hết cho mối tình của hai chúng tôi.
Chiều hôm sau, Roman bị chết đuối ngoài biển và không tìm thấy xác.
Trước lúc lên xe trở về, tôi chợt như nghe thấy có tiếng ai gọi mình. Tôi lao ra bờ biển, vừa chạy vừa gọi tên người bạn tình xấu số, nước mắt tôi nhòa đi, giọng khản đặc lại. Tôi ngã lăn xuống mép nước trong một cơn thổn thức không kìm lại được. Sóng biển chồm lên người tôi. Hòa với tiếng sóng, tôi lại nghe thấy tiếng ai đó gọi mình, lần này đúng là giọng Roman. Tôi như nhìn thấy thân hình cân đối hoàn toàn khỏa thân của chàng đi từ ngoài biển vào, mái tóc vàng xõa ra bay trong ánh nắng chói chang của mặt trời tháng bảy đang lên trên biển.
Tôi gào rất to và giật mình choàng tỉnh.
Ông Kovalenko đang ngồi bên cạnh, thong thả cài lại cúc áo. Ông húng hắng ho mấy cái như định nói điều gì đó rồi lại thôi. Tôi cảm thấy người trống rỗng, dửng dưng, không vui mà cũng chẳng buồn. Điều mà tôi vẫn mường tượng là ghê gớm lại diễn ra một cách bất ngờ và vô vị. Tôi loáng thoáng nghe thấy ông nói về việc căn nhà này sẽ được sửa sang lại cho đàng hoàng, về những chuyến du lịch Ai Cập hay Đảo Síp... Cho đến lúc ông bước ra khỏi cửa nhà, tôi vẫn bị vương vấn bởi hình ảnh người bạn trai, người mà tôi sẵn sàng trao thân không một chút do dự. Tôi uể oải ngồi xuống chiếc đi-văng bên cạnh lò sưởi. Một cảm giác buồn bã, bất hạnh xâm chiếm tâm hồn khi tôi nhìn xuống những mảnh vỡ của chiếc cốc vẫn lăn lóc trên nền nhà dưới gầm bàn. Bất giác, tôi gục mặt lên thành ghế và bật khóc tức tưởi. Tôi khóc rất lâu và có lẽ cũng rất to. Những thanh củi trong lò đã phủ một lớp tro tàn, thỉnh thoảng lại hồng rực lên mỗi khi có gió lạnh rít lên từng cơn trên mái nhà. Cuối cùng, tôi thiếp đi trong một giấc ngủ sâu không chút mộng mị.
Buổi dạy đàn hôm sau, tôi cáo ốm ở nhà. Tôi có cảm giác như người phạm tội và quả là khó mà nhìn thẳng vào mắt con gái cũng như vợ ông ấy.Tôi nghỉ gần một tháng và trốn tránh mọi cuộc gặp gỡ với ông. Ông ấy giống như một cậu học sinh, viết những lá thư dài chẳng đâu vào đâu nhét vào khe cửa nhà tôi. Trong một bức thư cuối, ông dọa nếu tôi không đến ông ấy sẽ quyên sinh. Dòng cuối bức thư ông viết: “Nếu em có căm thù anh, phỉ nhổ anh vì hành vi đốn mạt của mình thì em cũng thương lấy đứa con gái của anh. Chẳng ngày nào là nó không nhắc tới em, chẳng ngày nào là nó không giục anh tới nhà em hỏi xem tại sao lại không đến nữa. Anh phải nói dối rằng em đang lo thu xếp công việc gia đình đằng nhà bà mẹ nuôi. Một lần nữa, anh van em đừng nhẫn tâm đến như vậy! Ký tên: Người đầy tớ trung thành của em”.
Sau buổi học hôm thứ hai, vừa bước chân ra khỏi trường, tôi đã nhìn thấy chiếc xe màu mận chín của ông đậu ở phía bên kia hè đường. Tôi định quay gót bước sang một hướng khác thì ông đã nhanh nhẹn bước ra khỏi xe và tiến lại phía tôi. Tôi không biết làm gì hơn đành đứng im, tay vân vê chiếc quai da của hộp đàn.
- Em vẫn giận tôi sao? - ông Kovalenko khẽ nói.
- Chẳng có gì phải giận cả.
- Nếu không giận thì chúng ta cùng lên xe về nhà. Anjela đang sốt ruột chờ ở nhà.
Tôi rơi vào tình thế không biết tiến thoái ra làm sao và cuối cùng để mặc cho cánh tay ông dắt đến chỗ xe đậu. Trên đường đi, hai chúng tôi không ai nói với ai một câu nào. Tôi ngồi ở ghế sau. Thỉnh thoảng ông lại lầu bầu mấy câu nguyền rủa cái thời tiết tháng ba tuyết tan bẩn thỉu, đường sá lầy lội. Có một lần, ánh mắt chúng tôi gặp nhau trong chiếc gương chiếu hậu. Tôi vội cúi mặt xuống, còn ông khẽ mỉm cười. Ông với tay bật chiếc cát-xét. Tôi nhận ngay ra tiếng đàn của mình trong cuộc thi tại trường hồi nào. Bất chợt, mọi sự vật xung quanh như không còn tồn tại, chỉ có những âm thanh. Trong một khoảnh khắc, bằng tất cả mọi giác quan, tôi cảm nhận được ngay những khiếm khuyết trong tiếng đàn của mình, chẳng khác nào một người đầu bếp lành nghề chỉ cần ngửi qua mùi cũng biết trong món đó còn thiếu gia vị gì. Có một điều không giải thích được, là tại sao chính vào thời điểm này tôi mới phát hiện ra điều đó? Tôi chìm đắm trong thế giới âm thanh mà không hề để ý rằng xe đã phanh khựng lại trước cánh cổng quen thuộc. Ba chú chó lao ra khỏi cửa, chồm lên người tôi, đuôi ngoáy tít mừng rỡ. Tiếp sau đó là Anjela, trên người chỉ có độc chiếc váy ngủ, đầu tóc rối bù và trên tay còn cầm một cuốn sách đọc dở. Cô gái ôm chầm lấy tôi và khóc như một đứa trẻ. Hai chúng tôi cứ ôm nhau như thế mà đi vào trong nhà. Trước khi bước vào cửa, tôi kịp nhìn thấy cánh cửa trên tầng hai khẽ đóng lại. Bà Zinaiđa, vợ ông Ivan, chắc vừa hé cửa sổ nhìn xuống. Bà ấy không bao giờ biểu lộ tình cảm của mình ra mặt. Ở cuối mảnh vườn phía trước, bà già lao công cũng ngoảnh lại tươi cười vẫy tay chào tôi, chiếc vòi tưới bằng cao su màu đỏ trong tay vẽ lên trong không trung một đường vòng cung nước lấp lánh. Mọi vật trong ngôi nhà này như chào đón sự trở lại của tôi, nhưng không hiểu sao tôi vẫn có một cảm giác mình là người phạm lỗi. Mà lỗi gì đây? Tôi thực chưa có một câu trả lời thỏa đáng.
Theo chủ quan của tôi, từ ngày hôm đó, ông Kovalenko đã có những thay đổi không phải khó khăn lắm mới nhận ra. Mái tóc lốm đốm bạc đã biến mất sau làn thuốc nhuộm. Ông rất năng đi tập ten-nít và bơi lội. Ông quan tâm hơi thái quá tới các băng nhạc trẻ đang nổi tiếng. Ông có vẻ như chiều bà vợ khó tính hơn. Trên đường công danh, ông cũng được cất nhắc rất nhanh vì sự tận tụy với công việc, nhưng chắc chắn không thể thiếu những động thái ngoại giao tinh vi và hiệu quả của bà Zinaiđa.
Sau một lần đi nghỉ hè về, tôi không nhận ra được căn nhà tồi tàn trước đây của mình. Mái cũ đã được lợp lại, các cửa lớn cửa sổ được thay mới hoàn toàn. Cánh cổng vào cũng mới với tấm biển màu xanh lá cây trông mát mắt: Phố Lermontov, số nhà 173A. Tôi bước vào trong nhà, không tin ở mắt mình nữa, chẳng khác gì câu chuyện cổ tích: các đồ gỗ cũ kỹ từ thời sau đại chiến thế giới thứ hai biến đâu mất mà thay vào đó là bộ tủ tường sáng choang, bộ bàn ghế cũng không kém phần sang trọng. Một chiếc đàn piano mới để trong phòng ngủ khiến tôi mừng quá nhảy cẫng lên và mở ngay nắp đàn dạo một hợp âm làm rung động cả căn phòng bé nhỏ. Từ trong hộp đàn, một chiếc bưu thiếp màu xanh lơ rơi xuống dưới đất. Tôi cầm lên đọc và thực sự cảm động đến ứa nước mắt: “Tặng em nhân ngày sinh nhật lần thứ 16. Một người luôn luôn ngưỡng mộ sắc đẹp cũng như tài năng của em. Kovalenko. V. A”. Tôi thấy mình cũng hơi thất trách, không biết được ngày sinh của ông ấy. Một giọng nói từ bên trong vang lên khiến tôi cũng giật mình: “Nhưng mình có yêu ông ấy đâu”. Có lẽ, chiếm đoạt thân thể một người con gái không có gì khó, nhưng chiếm đoạt được tâm hồn cô ta mới là một việc không phải người đàn ông nào cũng làm được, kể cả người đó có quyền lực và giàu có.
Song, cái gì cũng có điểm kết thúc của nó, chỉ khác nhau là kết thúc có hậu hay không mà thôi. Về phần mình, tôi lại thấy như vậy là tốt hơn. Mặc dù tôi bước chân ra khỏi nhà ấy gần như bị sỉ nhục, nhưng chính từ những nguyên vật liệu ô uế đó, tôi đã tôi luyện nên một ý chí phi thường để giành được chiến thắng trong kỳ thi violon toàn quốc hai năm sau. Có lẽ, dân gian đã nói rất đúng: “Bất hạnh là một ông thầy thông minh nhất”, chí ít cũng là trong trường hợp của riêng tôi. Mọi chuyện bắt đầu từ một mảnh giấy tôi viết cho ông bị rơi vào tay bà Zinaiđa. Tình cờ bà ta tóm được mảnh giấy đó trong túi áo ngực của ông trong một lần soát túi thường kỳ. Ông Viktor có lần vô tình cho biết vợ ông có cái thói quen là hay lục soát cặp và túi áo quần của chồng. Mỗi người có những sở thích quái dị khác nhau. Nhưng ai cũng nghĩ rằng chỉ có sở thích của mình là chính đáng. Tôi vừa giận vừa thương cái người đàn ông đang ấp a ấp úng đứng trước mặt, trong khu vườn đằng sau trường. Tôi không hình dung ra nổi lúc ông hò hét hay quát tháo cấp dưới ra sao nhưng ở đây ông trông thật tội nghiệp. Mấy sợi tóc phía trước trán bết mồ hôi làm phai thuốc nhuộm thành những vệt nâu thẫm lem nha lem nhem.
- Anh quả là sơ suất, con bò cái ấy nó tru tréo lên, gạt đổ cả một chồng bát đĩa quí trong bếp. Anh bảo đây hoàn toàn là chuyện công việc cả thôi, nhưng mụ ta túm riết lấy một câu trong đó: “Anh nên giúp bà hàng xóm nhà em nhé!”. Mụ lý luận, nếu không có tình cảm gì thì chẳng bao giờ em lại lại dám nhờ anh với cái giọng như thế, với một người tuổi đáng bậc cha chú, lại có quyền thế trong xã hội. Mụ ấy thì quá thừa óc thông minh trong những chuyện tương tự.
- Theo lịch, ngày mai em đến tập đàn cho Anjela.
- Em chưa nên đến vội, để một thời gian cho nguôi ngoai đã. Anh biết tính mụ ấy rồi, chỉ sợ mất tiền thôi.
- Em mà không đến thì cũng không ổn, như thế lại càng chứng tỏ rằng có chuyện.
- Anh sẽ bảo Anjela đến nhà em, thế là hay nhất.
“Hay nhất” đó chỉ là đối với ông Kovalenko thôi, còn đối với tôi đây lại là buổi dạy đàn cuối cùng và cũng là một ngày mà có lẽ tôi không bao giờ quên. Hai chúng tôi tập đàn được khoảng một tiếng đồng hồ thì cảm thấy đói. Tôi chạy ù ra cửa hàng thực phẩm ở đầu phố mua trứng, pho-mát và bánh mì. Qua quầy bán báo, tôi dừng lại tiêu nốt số tiền lẻ để mua tạp chí “Moda” mà mình yêu thích. Bà bán báo cứ dứt khoát muốn nhận tôi làm con dâu và nói rằng nhất định hôm nào sẽ đưa con trai bà tới làm quen. Tôi chỉ cười và nói rằng còn phải học đã, còn khối thời gian để nghĩ tới chuyện đó. Bà gấp đôi tờ báo lại và còn dúi thêm cho tôi một thanh kẹo sô-cô-la. Ra khỏi quầy báo, tôi rảo bước thật nhanh trên con đường nhỏ gồ ghề vì sợ Anjela ở nhà một mình buồn. Vừa rẽ vào khúc ngoặt, tôi chợt trông thấy một chiếc xe Peujo màu xanh đỗ cạnh nhà mình. Một dự cảm không hay khiến bước chân tôi đi chậm lại. Cửa xe đóng kín mít nên tôi không nhìn thấy ai bên trong. Bước vào sân, tôi đã nghe thấy tiếng bà Zinaiđa đang quát tháo con gái. Tôi hiểu ngay ra mọi vấn đề , trống ngực đập thình thịch. Cánh cửa buồng đột ngột bật mở khi tôi vừa đưa tay lên định nắm chốt. Bà Zinaiđa hai tay đứng chống nạnh nhìn ra. Hai hàng lông mày kẻ chì đen nhánh như dính lại thành một. Đôi môi tô son đỏ mím lại một cách độc ác và để bật ra mấy từ vừa cay nghiến vừa mỉa mai:
- Con Lolita đã dẫn xác về kia rồi!
Khi đó, tôi chưa biết tại sao bà lại gọi tôi là “Lolita”. Sau này, tôi mới hiểu đó là nữ nhân vật nhỏ tuổi trong tiểu thuyết nổi tiếng cùng tên của nhà văn Nga lưu vong Vladimir Nabokov. Cô bé đã có một cuộc tình say đắm với một nhà văn lớn tuổi, người ở trọ trong ngôi nhà của gia đình cô. Tiểu thuyết được làm thành phim và tôi đã xem đi xem lại không biết chán. Có lẽ, trong mỗi người đàn bà chúng ta đều đã từng ẩn chứa một “Lolita” chăng?
Tôi không muốn nhắc lại những lời nói thô bỉ, tục tằn của một người đàn bà thuộc tầng lớp quan chức, tinh hoa của một thành phố, lại có tiếng là văn hóa cao. Nếu có viết ra đây thì nó cũng chỉ làm bẩn giấy, tốn mực mà thôi. Trong suốt gần nửa tiếng đồng hồ bà chửi bới sỉ vả, Tôi chỉ đứng im như chôn chân xuống bậc thềm nhà mình. “Lời nói đọi máu”, trước khi đóng sập cửa lại, bà ném vào mặt tôi một câu nói mà tôi đến chết cũng không quên được: “Con ranh hạ đẳng kia, chỗ của mày trong xã hội này là đứng ngoài vỉa hè đón khách, rõ chưa?” Tôi không biết sắc mặt tôi ra sao, nhưng sau khi bà ta kéo con gái ra khỏi nhà rồi, tôi chợt thấy vị mặn trong miệng. Thì ra, vì căm giận mà tôi đã cắn rách toạc môi mình lúc nào không hay.
Năm năm sau, cũng chính tại bậc cầu thang này, bà ta đã phải lạy lục mời mọc tôi đến chơi nhà bà. Bà ta cắn rơm cắn cỏ xin lỗi tôi và nói rằng trái tim nông nổi ghen tuông của đàn bà thì làm gì còn có trí khôn nữa. Nhưng tôi thì nhìn xuyên thấu tâm can bà: bà muốn qua tôi để tiếp cận một con người có quyền lực tại Kiev.
Cũng chính cái năm đáng ghi nhớ đó, tôi thi và trúng tuyển vào Nhạc viện Kiev. Tôi cho một gia đình người Việt Nam làm ăn buôn bán tại trung tâm thương mại Barbasova thuê lại ngôi nhà. Bằng số tiền cho thuê đó, tôi tiếp tục tu nghiệp tại thủ đô và đoạt giải nhất trong cuộc thi violon toàn Ucraina khi đang học năm thứ ba. Trong thời gian này, tôi đã cự tuyệt mọi lời van xin, nài nỉ gặp gỡ của ông Kovalenko. Ông ấy gọi điện, viết thư và bộc bạch rằng: “Mọi người cứ nghĩ anh lên thủ đô công tác, nhưng đấy chỉ là việc phụ, việc chính là muốn được gặp em. Đừng để người đàn ông bất hạnh này phải đau khổ và mất hết niềm vui sống ở trên đời này”. Tôi không muốn gặp ông bởi vì tôi không thể quên được cái hôm bà vợ ông sỉ nhục tôi. Trái tim tôi khao khát được trả thù. Tôi đã làm được việc đó bằng những thành công vang dội trên con đường âm nhạc. Cuối năm thứ năm, tôi lại đoạt giải nhất trong kỳ thi violon quốc tế tổ chức tại Praha. Tổng thống Ucraina đã đích thân trao tặng tôi danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân Ucraina và huy chương vì sự nghiệp phát triển Nghệ thuật. Tôi là Nghệ sĩ Nhân dân trẻ nhất và duy nhất không phải người gốc Ucraina. Tôi được chào đón ở khắp mọi nơi. Mọi cánh cửa của các gia đình giàu sang, quyền thế của Kiev luôn luôn mở rộng đối với tôi. Chính trong những giây phút mà mọi người cho là vinh quang đó, tôi lại cảm thấy chán nản, thất vọng và cô đơn. Tôi trốn tránh những lời mời mọc, những bữa tiệc chiêu đãi triền miên bằng các chuyến đi biểu diễn trong và ngoài nước. Tôi kiếm được nhiều tiền, rất nhiều tiền bằng sức lao động và tài năng của mình. Nhưng không hiểu sao, tôi vẫn không cảm thấy mình là con người hạnh phúc. Tôi chưa tìm được tình yêu đích thực, chưa tìm được người đàn ông lý tưởng của cuộc đời mình. Cho đến lúc này, ngồi viết những dòng chữ này, tôi vẫn ước ao và sẵn sàng đánh đổi tất cả danh vọng để có được một người đàn ông mà mình có thể đặt mọi niềm tin. Một người đàn ông duy nhất của đời mình. Để một người đàn bà hạnh phúc, chắc cũng chỉ cần có vậy!”.
23
Tôi ngừng lại, như một vận động viên bơi lội trồi lên khỏi mặt nước để lấy hơi. Lúc này, tôi mới chợt nhớ ra là mình đang ngồi ở đâu. Cảm giác về thời gian trôi qua rất lâu, nhưng khi nhìn lên chiếc đồng hồ treo tường, mới vẻn vẹn gần một tiếng đồng hồ. Xung quanh vẫn im lặng. Trong tâm hồn tôi xáo trộn nhiều cảm xúc khác nhau. Nói đúng hơn là cảm giác ghen tỵ, nuối tiếc một cái gì đấy rất xa vời, cảm giác đau mà chưa xác định được vị trí đau ở đâu. Tôi uống nốt cốc nước chè đã nguội ngắt và cảm thấy khé trong cổ họng. Không hiểu sao, tôi bỗng liên tưởng đến một lần đi xem múa ba-lê vở “Hồ Thiên Nga” tại nhà hát lớn ở Matxcơva. Thật không may, chỗ ngồi của tôi lại đúng vào hàng ghế đầu tiên, sát ngay sân khấu. Tôi phải nhìn thấy cả mồ hôi mồ kê nhễ nhại trên mặt trên cổ các diễn viên, nhìn thấy rõ cả lớp phấn son tô dày, đậm nét bị mồ hôi và ánh đèn chiếu sáng hun nóng làm cho lem nhem, nhìn thấy cả lớp bụi mờ mờ trên sàn sân khấu... không hiểu sao, ấn tượng về vở ba-lê xem hôm đó giảm hẳn, mất đi những nét thanh cao hoàn mỹ của vẻ đẹp hình thể, mất đi vẻ siêu thoát của bộ môn nghệ thuật cao quí này. Nó kéo ba-lê xuống gần với một môn thể thao trong rạp xiếc. Có lẽ, tốt nhất là nên chiêm ngưỡng từ xa con thiên nga trắng đang sải cánh trên mặt hồ hơn là tiếp cận nó trong nhà bếp.
Tôi lật tiếp những trang cuối của tập hồ sơ. Đó là bản thuật lại cuộc đối thoại, hay gọi theo đúng ngôn ngữ pháp luật là bản khai nhân chứng, mà một bên là thẩm phán viên và một bên là nghệ sĩ Tachiana. Bản này được đánh máy cẩn thận, đôi chỗ bị gạch đít bằng bút bi đỏ, chắc là vấn đề quan trọng mà ông Fadman muốn lưu ý. Không hiểu sao, cái hào hứng muốn đọc biến đâu mất. Nhưng tôi vẫn lơ đãng lật giở và đọc lướt qua.
Thẩm phán viên: Không kể buổi tối hôm đó, chị gặp ông Kovalenko lần cuối cùng khi nào? Ở đâu?
Nữ nghệ sĩ: Ba tháng trước đó. Trước chuyến đi biểu diễn tại Ai Cập, tại nhà riêng của tôi.
Thẩm phán viên: Ngôi nhà này chị được cấp hay mua?
Nữ nghệ sĩ: Tôi mua bằng tiền của mình.
Thẩm phán viên: Chúng tôi sẽ kiểm tra việc này sau. Chị có thể cho biết nội dung cuộc nói chuyện hôm đó được không? Và ông ấy có bao giờ nói với chị về chuyện công việc của mình, nhất là trong thời kỳ chuẩn bị cho cuộc vận động tranh cử tổng thống vừa qua không?
Nữ nghệ sĩ: Ông ấy đến nhà tôi cùng với con gái. Tôi và con gái ông ấy chơi thân với nhau từ khi còn học phổ thông. Chuyện công việc thì không, nhưng chuyện bầu cử thì có. Ông ấy muốn tôi tham gia biểu diễn trong một chương trình ca nhạc khắp các tỉnh thành Ucraina nhằm ủng hộ cho ứng cử viên đảng Dân chủ với một khoản tiền thù lao lớn.
Thẩm phán viên: Và chị đã đồng ý?
Nữ nghệ sĩ: Trong một nước dân chủ thì quyền ủng hộ ai là do mỗi người tự quyết định. Tôi đồng ý nhưng với điều kiện chỉ tham gia ở những thành phố như: Kiev, K. và Odessa.
Thẩm phán viên: Tại sao lại như vậy?
Nữ nghệ sĩ: Vì ở những thành phố này có đông người đồng hương Việt Nam.
Thẩm phán viên: Tôi muốn chị kể rõ hơn cái đêm xảy ra vụ tự sát đó? Xin chị lưu ý thêm một điểm rằng mức độ trung thực trong lời nói của chị rất ảnh hưởng đến con đường sự nghiệp của chị sau này.
Nữ nghệ sĩ: Anh có thể nói điều đó với ai khác chứ không phải với tôi. Anh là đại diện của chính quyền mới, tôi thấy cũng nên có cách xử sự mới, nhất là với giới văn nghệ sĩ, những người nắm giữ mọi giác quan cảm xúc của cả một xã hội.
Thẩm phán viên: Xin chị đi thẳng vào câu tôi hỏi?
Nữ nghệ sĩ: Lúc đó vào khoảng gần nửa đêm, tôi bị đánh thức dậy bởi một hồi chuông điện thoại. Máy điện thoại tôi không để trong phòng ngủ mà ở phòng khách. Bởi vậy, chuông đổ đến mấy lần trong đêm hôm khuya khoắt nghe cũng kinh kinh. Tôi nhấc ống nghe lên và nhận ngay ra giọng ông Kovalenko. Ông xin lỗi tôi vì đã trót quấy rầy giấc ngủ. Tôi hỏi xem có chuyện gì mà ông ấy phải gọi đường đột vào giờ này. Ông ấy bảo ông ấy sắp đi công tác xa, muốn mời tôi ngày hôm sau sang nhà nghỉ của ông ở bên hồ Xantovka. “Tôi sẽ cho xe đến đón em” - ông nói như vậy. Tôi im lặng một lúc, đắn đo suy nghĩ không biết nên đồng ý hay không. Tôi biết ông ấy bây giờ đang thất cơ lỡ vận và nghe phong thanh đâu bên Viện Kiểm sát đã có giấy gọi lên chất vấn về việc sử dụng tiền công quỹ vào cuộc tranh cử vừa qua. “Đừng cư xử tàn nhẫn với anh như vậy” - thấy tôi im lặng lâu, ông ấy lên tiếng, giọng yếu ớt. Tôi đồng ý vì muốn được nhìn thẳng vào mắt bà Zinaiđa để thỏa lòng căm thù, để được tận mắt nhìn thấy đôi mắt bà ta phải cúi xuống trước ánh mắt của cái “con ranh hạ đẳng” này. Đàn bà là giống người nhỏ nhen, hay nhớ dai và thù vặt. Tôi không phải là một ngoại lệ. Hôm sau, tôi diện bộ đồ thật sang trọng, gam màu xanh lục, do một nhà tạo mẫu ở Milan tặng trong đợt đi biểu diễn tại Italia. Trong bộ đồ này, tôi đã xuất hiện trước khán giả của đài truyền hình BBC và nhận được một khoản thù lao quảng cáo rất cao của nhà tạo mẫu. Tôi cố tình đến muộn nửa tiếng và rất ngạc nhiên vì trong khuôn viên của khu vườn tụ tập rất đông khách, nhiều người trong số đó tôi biết mặt. Ông Kovalenko hấp tấp chạy ra tận cửa đón tôi vào. Tôi cảm nhận được những ánh mắt hâm mộ, thân thiện của các quý ông, đồng thời không để lọt qua mắt những cái đầu uốn tóc công phu của các quý bà chụm lại, thì thầm to nhỏ. Những ánh mắt sắc nhọn chà đi sát lại từ đầu đến chân tôi không bỏ sót một tiểu tiết. Tôi đoán chắc là họ đang bình phẩm bộ áo cánh tôi đang mặc trên người, đôi giày tôi đi dưới chân và kiểu tóc mà hôm nay tôi chải. Tôi thấy một quý bà quay ngoắt mặt đi khi tôi bước lại gần. Nhìn từ phía sau tôi cũng nhận ngay ra bà hiệu trưởng Học viện Âm nhạc K.. Với phụ nữ, hình như tôi bao giờ cũng là một kẻ thù đáng ghét dù chẳng làm nên tội lỗi gì. Diện mạo và tài năng của tôi gây cho mình không ít kẻ thù. Nhưng đó cũng lại là chất kích thích cần thiết đối với người nghệ sĩ.
Chuyện gì diễn ra trong cuộc vui chơi này, chắc cũng chẳng có gì đáng để nói lại. Nó cũng nhàm chán và công thức như trăm ngàn cuộc vui chơi mà giới thượng lưu thành phố vẫn bày vẽ ra để tiêu xài tiền và thời gian, để trả nợ miệng nhau, để mưu tính những vụ áp phe chính trị, và để ngồi đem chuyện của người khác ra làm đề tài cho những tiếng cười bên ly rượu. Khoảng gần mười hai giờ đêm, mọi người lục tục kéo nhau ra bãi đỗ xe để trở về thành phố. Tôi là người ra gần cuối cùng vì câu chuyện với Anjelicka mãi không dứt. Cô định ra tiễn tôi nhưng đứa con nhỏ hai tháng tuổi thức giấc và khóc mãi không chịu nín. Chúng tôi chia tay nhau ở ngay ngưỡng cửa nhà bếp. Ông Kovalenko từ trên tầng trên đi xuống, khuôn mặt tỏ ra rất xúc động. Hình như ông vừa nói chuyện điện thoại với ai đó. Bởi vì trước đó mấy phút, tôi nghe được lõm bõm mấy câu từ phía trên đưa xuống: “Chúa sẽ là người làm chứng”. Ông muốn tiễn tôi một quãng. Ông nói với người lái xe là cứ cho xe ra chỗ gần cầu đợi, hai chúng tôi vừa thong thả đi bộ vừa có câu chuyện muốn nói với nhau.
Thẩm phán viên: Từ chỗ đó ra đến cầu khoảng cách bao xa?
Nữ nghệ sĩ: Nếu tôi không nhầm thì chỉ khoảng hơn một trăm mét, nhưng chúng tôi lúc thì đi bộ lững thững, có lúc đứng lại nói chuyện.
Thẩm phán viên: Tôi muốn biết nội dung câu chuyện?
Nữ nghệ sĩ: Cũng thật bất ngờ đối với tôi. Ông ấy nắm lấy tay tôi và nói rằng: “Anh không thể ở lại mảnh đất này được nữa. Đối với anh chỉ có hai con đường để lựa chọn: hoặc đi khỏi đây hoặc là...”
Ông không nói hết nhưng tôi cũng lờ mờ hiểu ra ngụ ý của ông. Ông nắm tay tôi và hôn: “Anh cầu xin em hãy cùng anh đi khỏi đất nước này, chúng ta sẽ đi thật xa, ở một nơi mà không một ai hay biết chúng ta là ai, chúng ta sẽ bắt đầu cuộc sống lại từ đầu, nhưng không phải với hai bàn tay trắng. Em sẽ không bao giờ phải lo lắng đến cuộc sống, em có thể dành toàn bộ thời gian và sức lực cho âm nhạc”.
Thẩm phán viên: Ông ấy có gọi tên đất nước đó ra không?
Nữ nghệ sĩ: Không. Tôi cũng không hỏi bởi vì tôi không đồng ý với lời đề nghị của ông ấy. Ông ấy đứng khựng lại, đầu rũ xuống khi nghe thấy mấy tiếng “Em - không - thể “. Sau này tôi nghĩ lại và hiểu rằng ông ấy đã trúng ba viên đạn này và tử nạn trước khi nhận hai viên đạn chì cũng có thể do chính tay ông bắn và cũng có thể có ai đó giúp đỡ. Khi phía trước mặt chúng tôi hiện ra hai chấm đèn đỏ của chiếc xe con thì ông Kovalenko quay lại không một lời chào tạm biệt. Tôi còn đứng lại một lúc lâu, vừa châm thuốc hút vừa nhìn theo cái bóng đen lầm lũi bước đi, trong lòng không khỏi gợn lên một tình cảm thương hại đối với con người có thể gọi là ân nhân mà sau này tôi đã cư xử với ông ấy chưa thật đúng. Búng mẩu thuốc lá mới hút được một nửa qua thành cầu, tôi ngồi vào xe. Chiếc xe chậm chạp lăn bánh trên những thanh gỗ lớn lát sàn cầu. Vừa đi hết chiều dài chiếc cầu dài, tôi giật mình vì hai tiếng nổ khô khốc vang lên trong đêm khuya thanh vắng. Người lái xe bỗng buột miệng nói:
- Giờ này mà vẫn còn có thằng lọ mọ đi săn.
24
Lời đề nghị của ông Fadman thật bất ngờ, chẳng khác nào việc ông đưa cho tôi đọc tập hồ sơ về vụ án. Tôi tưởng mình nghe nhầm và hỏi lại một lần nữa.
- Có thể vào thăm Tachiana được sao?
- Tôi sẽ thu xếp cho - ông ngừng lại suy nghĩ một lát và nói tiếp - Thứ ba tuần sau.
Hôm nay đã là chủ nhật. Còn hai ngày nữa. Không hiểu sao, tôi nghĩ ngay đến Trọng và muốn rủ anh cùng vào thăm để đưa món quà của vợ anh đến tận tay Thảo. Trong thời điểm này, nó có tác dụng nâng đỡ tinh thần rất lớn. Tôi muốn bằng sự hiện diện của mình và anh Trọng sẽ làm cô cảm thấy gần gũi với Việt Nam hơn trong những giây phút khó khăn, những giây phút mà ngay cả những người bạn thân cũng có khi ngại liên hệ vì sợ bị liên lụy, sợ bị ảnh hưởng đến con đường công danh của mình mà tìm cách xa lánh.
Tôi tìm cách gọi điện cho Trọng thì anh lại đang đi công tác khảo sát tại một nhà máy sản xuất chế biến cá ở dưới vùng nghỉ mát Crưm. Anh chỉ nói qua điện thoại rằng nếu thu xếp được anh sẽ bay về K. còn không thì sau chuyến đi anh sẽ qua thăm. Qua giọng nói của anh, tôi có cảm tưởng như anh lại phát hiện ra châu Mỹ một lần nữa. “Mình bị phong cảnh của Crưm hút mất hồn rồi, đầu óc chếnh choáng như say rượu vậy”. Đấy là câu kết thúc cuộc nói chuyện qua điện thoại ngắn ngủi của anh.
Buổi sáng thứ ba, đúng lúc tôi định bước ra khỏi cửa ký túc xá để đến nơi hẹn với ông Fadman thì bà gác cổng gọi giật lại. Bà chìa cho tôi một bức điện và nói:
- Bức điện đến từ hôm kia nhưng tìm cậu không thấy đâu. Đừng quá mải chơi đấy nhé, con gái Ucraina thời nay đừng tin chúng nó, chỉ thích uống rượu và nhảy đầm thôi! Cứ ai có tiền là chúng nó theo.
Tôi chộp lấy bức điện trong tay bà và đọc lướt qua. Đầu óc cảm thấy chao đảo. Mẹ tôi đang bị ốm nặng vì một cơn xuất huyết não. “Phải lấy vé máy bay ngay hôm nay thôi, không thể chậm trễ được”.
25
Tôi vào gặp Tachiana trong vòng mười lăm phút. Cô trông có gầy đi, dưới mắt có vệt quầng thâm chứng tỏ nhiều đêm mất ngủ. Tôi đưa cho cô một số thực phẩm và nói rằng trong mấy ngày tới sẽ có anh Trọng, chồng của người phụ nữ đã tặng cô chiếc trâm cài đầu năm nào vào thăm cô. Tôi nói rằng sau chuyến về phép lần này, khi sang tôi sẽ có câu chuyện quan trọng muốn nói với cô. Cô hỏi vặn tôi bằng tiếng Việt là tại sao không thể nói ngay bây giờ. Tôi trả lời nửa đùa nửa thật rằng, biết đâu đó ở trong căn phòng này người ta đặt máy nghe trộm thì sao. Cả hai chúng tôi đều cùng phì cười. Song, nụ cười của cả hai đều có cái gì đó gượng gạo. Mỗi người đều có những đau khổ riêng của mình mà không nói ra được.
Lúc ra về, tôi hôn tay cô. Cô nói rằng xong vụ này sẽ tiếp tục viết luận án của mình và chúc mẹ tôi chóng bình phục.
Tôi không ngờ rằng để được gặp lại cô, ông Tạo đã đưa ra một con số mà ngay lúc đó tôi không thể tin được: mười năm trời, mà lại trong một hoàn cảnh không ai có thể ngờ tới.
Khi máy bay đáp xuống sân bay Nội Bài, tôi rơi vào vòng tay của những người thân ra đón, rồi tiếp đến những ngày tháng túc trực trong bệnh viện và cuối cùng là sự ra đi của con người mà tôi yêu quý nhất, song lại làm cho bà khổ tâm nhiều nhất. Tôi bất lực khi lý giải những tình cảm mâu thuẫn của mình đối với mẹ. Cuộc sống của tôi trong những ngày tháng đó tăng tốc đến chóng mặt, nhiều giá trị, ước mơ hoài bão mà trước đó tôi tôn thờ và ấp ủ ở nước ngoài bị đổ nhào. Nanh vuốt của cuộc sống đời thường giơ ra khiến tôi vừa sởn gai ốc vừa kích thích máu lãng du trong con người tôi. Tôi đồng ý làm hợp đồng với một công ty du lịch xuyên Việt. Đất nước mà tôi tưởng là mình đã biết quá rõ không ngừng làm tôi kinh ngạc qua các chuyến đi. Kinh ngạc cả về vẻ đẹp cũng như sự nghèo khó của nó.
Tôi cũng ngạc nhiên khi nghĩ tới ý định quay trở lại Ucraina đã tan biến đi từ lúc nào. Có lẽ chính là lúc tôi đứng lặng bên ngôi mộ của mẹ và như cảm nhận thấy phần xương thịt yêu quý ấy đang thấm dần vào mảnh đất tôi đang đứng. Những gì tôi nếm trải trong hơn mười năm lưu lạc nơi đất khách quê người trở nên xa vời, như một tiếng gọi đò tan biến vào màn đêm thanh vắng. Thỉnh thoảng, trong những giấc mơ có những khung cảnh, gương mặt của mảnh đất mà tôi đã từng sống thoáng qua, nó làm tâm trạng tôi gợn lên chút ưu tư trước khi bật dậy khỏi giường. Tôi cũng có lần mơ thấy Tachiana. Tôi xem đó là một giấc mơ đẹp và khi tỉnh dậy rồi vẫn còn thấy tiếc. Tôi đã vào nghĩa trang Trường Sơn, tận mắt nhìn thấy những cánh đồng mộ chạy ngút tầm mắt và không hiểu sao tôi bỗng cảm thấy số phận của nữ nghệ sĩ Tachiana cũng chỉ là một nỗi đau vô cùng nhỏ bé nếu so với nỗi đau mà hàng triệu người dân Việt Nam phải chịu đựng trong cuộc chiến tranh dài nhất trong lịch sử vừa qua. Phải chăng, nỗi đau mới là mẫu số chung của cuộc sống con người?
Trong mười năm sau đó, tôi thay đổi khá nhiều nghề và cuối cùng cảm thấy hài lòng với nghề “cha truyền con nối” - nghề phóng viên. Đó cũng chính là nguyện vọng của mẹ tôi trước lúc lâm chung. Tôi làm cho báo “Dân trí” vì cảm thấy tờ báo này hợp với “gu” của mình. Nghề này mở ra cho tôi nhiều mối quan hệ, nhiều cánh cửa không phải ai cũng có thể bước vào. Song, cái mà tôi thấy lợi trước mắt là nghề báo trợ lực cho người viết tiểu thuyết không chỉ vì nó buộc ta phải viết ngay lập tức và tạo mối liên hệ thường xuyên với ngôn từ sống động, mà chủ yếu còn vì nó cho phép thường xuyên tiếp xúc với thực tế.
Câu chuyện tôi đang kể trên bị gián đoạn mười năm trời. Và trên thực tế, tôi cũng bỏ lay lắt bản thảo trong ngần ấy năm. Nhiều lần, bản thảo có nguy cơ bị tiêu hủy. Lúc thì do chuyển nhà, vợ tôi đã xếp nó vào đống giấy lộn cần châm một mồi lửa, lúc lại bị hai thằng con trai đem ra bồi dán đầu sư tử trong đêm Trung thu. Nhiều lần, tôi cố gắng hư cấu thêm đoạn kết của câu chuyện nhưng đều cảm thấy nhợt nhạt, thiếu máu. Nhưng không hiểu sao, tôi vẫn có một linh cảm rằng thế nào cuộc sống cũng sẽ mách bảo cho tôi lối thoát của cuốn tiểu thuyết đang dở dang này. Vấn đề là ở thời gian, phải kiên trì chờ đợi.
Cuối cùng, tôi cũng đã tìm ra mà lại vào một thời điểm không hề mong đợi.
(Còn tiếp kỳ sau)
(Xem lại: Phần 1 - 10)
11
...Sau thời gian phục vụ trên công trường thanh niên cộng sản, xây dựng tuyến đường sắt Baican-Amua, Vera được cử đi học đại học, khoa luật tại K. Gia đình cô sống chật chội trong căn hộ một buồng trên phố Bairon, nằm gần ngoại ô thành phố. Việc cô được phân công về làm tại phòng cảnh sát hình sự của quận Kominter sau khi tốt nghiệp đã hứa hẹn một tương lai khá sáng sủa. Cô gái có đôi mắt xanh và mái tóc vàng kiều diễm được vào biên chế ngay. Cô lại còn học thêm một bằng đại học tại chức nữa của ngành công an và ra làm thẩm phán. Chẳng bao lâu nữa, cô sẽ nhận được quân hàm trung úy... Một nơi ở mới rộng rãi, một công việc đầy thú vị mang đậm màu sắc quyến rũ ly kỳ kiểu Sholokhome cộng với đồng lương kha khá đang chờ đón. Năm 1970, mùa đông đến sớm hơn, đầu tháng mười một mà tuyết đã phủ trắng xóa đường phố. Vera khoan khoái hít thật sâu cái không khí lạnh, khô, khỏe khoắn thường chỉ có khi tuyết mới rơi. Những bông tuyết nhỏ xoay tít đáp khẽ lên chiếc mũ lông cáo xinh xắn trên mái tóc vàng óng ả của cô. Cô vui vì hôm nay là lần đầu tiên cô tự mua cho mình một chiếc mũ mới mà cô vẫn mong ước bấy lâu. Niềm vui nâng đôi chân nhỏ nhắn của cô bước thoăn thoắt trên bậc cầu thang dẫn lên tầng ba. Qua khe cửa hé mở của phòng làm việc, cô nhận ra giọng nói ồm ồm của thiếu tá Vitali, trưởng phòng của cô, đang nói chuyện qua điện thoại. “Chắc có việc gì gấp nên ông mới đến sớm như vậy”, cô chợt nghĩ trong đầu và đẩy cửa bước vào. Ông Vitali quay lại nhìn cô và lấy tay ra hiệu bảo cô ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh. Cô vừa treo áo và mũ vào tủ xong thì cũng là lúc cuộc nói chuyện điện thoại của ông chấm dứt. Ông xoa xoa hai bàn tay vào nhau và chống tay lên cằm ra chiều suy nghĩ. Trên bàn trước mặt ông là một tập hồ sơ dày cộp:
- Tôi suy nghĩ mãi và quyết định giao cho cô lấy khẩu cung của phạm nhân này. Cô đọc kỹ hồ sơ và tiến hành làm ngay cho tôi - nói đến đây, ông đẩy tập hồ sơ về phía Vera. - Bên tòa án người ta vừa gọi điện sang giục. Tôi đã hứa trong vòng một tuần sẽ hoàn tất hồ sơ, cô thấy thế nào?
- Quả là cũng hơi gấp, nhưng tôi sẽ cố gắng.
Thiếu tá Vitali không nói thêm một câu nào, đứng dậy và bước ra khỏi phòng. Ngay chính lúc đó Vera không thể biết được rằng cuộc đời của cô đang đứng trước một bước ngoặt lớn mang tính định mệnh.
Vera chợt giật mình khi nghe thấy những tiếng chân bước lộp cộp ngoài hành lang. Mặc dù đây không phải là lần đầu tiên tiếp xúc với những tội phạm đặc biệt, song không hiểu sao cô vẫn có một linh cảm không bình thường. Tiếng gõ cửa vang lên khô khốc.
- Mời vào! - Vera chỉnh lại tư thế ngồi sau chiếc bàn làm việc màu nâu kê cạnh cửa sổ.
Cánh cửa bật mở. Thoạt tiên là người lính cảnh vệ to cao đeo súng tiểu liên bước vào. Anh ta giơ tay lên chào cô và bước tới đặt lên bàn một tờ giấy. Cô vừa ký nhận vào tờ giấy vừa nói với anh ta:
- Cho phạm nhân vào!
Đúng lúc cô ngẩng lên và chìa tay ra để trả lại tờ biên lai cho anh lính áp giải thì trong khung cửa xuất hiện kẻ phạm tội dưới bộ dạng một thanh niên cao dong dỏng, trắng trẻo thư sinh. Ánh mắt hai người gặp nhau. Vera giật mình và cảm thấy như có một luồng điện chạy xuyên qua người, gai cả sống lưng. Cô tuột tay làm rơi tờ giấy xuống sàn nhà. Người lính áp giải cúi xuống nhặt rồi hất đầu về phía chiếc ghế kê sát tường:
- Ngồi xuống kia!
- Mở khóa tay cho anh ta! - cô ra lệnh và cảm thấy không hiểu sao từ giây phút phạm nhân bước vào phòng, tâm trạng cô đột nhiên thay đổi một cách khó hiểu. Cô cố tình tránh ánh mắt nhìn thẳng của anh ta bằng cách lật giở những trang hồ sơ để trên bàn. Anh lính áp tải tra chìa khóa vào chiếc còng số tám và giải phóng đôi tay cho phạm nhân. Chắc chiếc còng quá nhỏ nên phạm nhân cứ xoa vết hằn đỏ ở cổ tay mãi. Bàn tay với những ngón dài thon mảnh, nhạy cảm như tay con gái đập vào mắt cô.
“Người có bàn tay kia mà lại là một tay ăn trộm cao thủ, thật không thể tin được!” Vera nghĩ thầm trong bụng và có cảm giác rằng mình đã gặp chàng trai mắt xanh, tóc đen này ở đâu đó rồi.
Cánh cửa sau lưng người lính áp giải đóng lại. Trong phòng chỉ còn lại hai người. Một người đàn ông và một người phụ nữ. Họ sẽ còn phải làm việc với nhau như vậy hàng ngày, có thể là một tuần hoặc còn lâu hơn nữa. Tất cả những gì thuộc về cảm tính ban đầu đều qua đi, nhường chỗ cho những cuộc hỏi cung, biên bản, các xét nghiệm nghiệp vụ... Không còn thời gian cho những suy nghĩ lãng mạn. Xergay năm đó hai mươi tám tuổi, sinh trưởng tại Odessa, có một cá tính hoàn toàn trái ngược với Vera. Trong vòng bảy năm, anh ta đã phải ngồi tù hai lần, lần cuối cùng với án ba năm tù cải tạo chế độ đặc biệt. Là một người chuộng các cảm giác mạnh, anh đã đào tạo bản thân trở thành một tay đào tường khoét vách thuộc loại cao thủ. Một đặc điểm riêng là không bao giờ “đập hộp” những căn hộ thấp dưới tầng năm. Việc hỏi cung kéo dài gần một tháng trời. Chính vào thời điểm đó, mẹ của Vera lại ốm nặng. Người ta mổ cho bà lần thứ hai. Vừa làm việc, Vera vừa trông mẹ ốm trong bệnh viện, bản thân lại bị những cơn đau dạ dày từ hồi sống ở Xibiri tái phát hành hạ. Vera gầy đi gần chục cân, hai mắt thâm quầng. Song, không một ai trong giới lãnh đạo để mắt xem chuyện gì đang xảy ra với nhân viên dưới quyền mình. Còn Xergay, trong những lần hỏi cung thường kỳ, rất ân cần thăm hỏi: “Hình như chị có chuyện không vui thì phải, trông chị xanh xao quá?” Tại thời điểm này, mối quan hệ giữa bị cáo và thẩm phán đã chuyển sang tình bạn bè thân hữu. Xergay bộc bạch rằng, lần đầu tiên ăn cắp là để mua thuốc cho người yêu đang nằm trên bàn mổ. Sau khi anh bị bắt và ra tù thì cô ấy chết. Khi đó anh mới mười tám tuổi. Từ đó ăn cắp đã thành quen tay. Từ lâu anh đã định bỏ nghề, nhất là khi bị bắt lại lần thứ hai, anh đã ao ước được ăn một viên đạn để không phải bị ngồi tù. Xergay rất tốt bụng và cởi mở. Cung cách đối xử của anh với bà mẹ mỗi khi mang đồ tiếp tế vào khiến Vera cảm phục và xúc động. Đến một lần, sau khi mẹ Xergay đưa đồ ăn vào cho con về, người lính áp tải xồng xộc chạy vào trong phòng cô và chìa ra một băng giấy xé từ mép tờ báo hàng ngày, được cuộn lại cẩn thận như một điếu thuốc con con. “Hắn định tuồn lá thư này cho bà mẹ, tôi phát hiện được và thu lại cho chị đây”. Vera cảm ơn tinh thần trách nhiệm của anh lính và bỏ dở việc đánh máy biên bản, bóc lá thư ra đọc. Càng đọc, hai má cô càng ửng đỏ lên, nhất là đến đoạn: “Con đã phải lòng một cô gái, song cô ấy hoàn toàn khác con. Con cũng không hy vọng là cô ấy hiểu con. Song, con sẽ làm mọi cách để chinh phục được cô ấy. Giữa chúng con là một khoảng cách lớn và phía trước là một tương lai không rõ ràng. Không phải bất cứ người phụ nữ nào cũng dám hy sinh khi trói buộc số phận mình với một tên tù. Cô ấy tên là Vera, người hiện đang thẩm vấn con”. Vera ngồi thừ ra một lúc lâu và trong thâm tâm cô cũng tự thú nhận với chính mình rằng, trái tim cô đã thuộc về kẻ phạm tội từ bao giờ mà cô không hay. Cô không nói ra nhưng chính cô cũng nóng lòng chờ đợi đến giờ thẩm vấn như đến cuộc hò hẹn. Trước đó cô đã kín đáo trang điểm lại khuôn mặt cũng như quần áo sau cánh tủ đựng tài liệu ở góc phòng làm việc. Vera định đốt lá thư đó đi nhưng không biết nghĩ sao, cô lại dụi que diêm đã cháy được một nửa vào chiếc gạt tàn trên bàn, nhét mẩu thư xuống dưới lớp lót của hộp trang điểm.
Tháng mười một, cây cối đã trút gần hết những chiếc lá vàng, chỉ còn để lại những cành cây khẳng khiu, đâm tua tủa lên bầu trời xanh nhạt của thành phố được điểm xuyết bằng những gợn mây trắng hình đàn cừu trên thảo nguyên. Vera chuyển toàn bộ hồ sơ sang bên tòa án. Lúc tạm biệt, cô đã để lại địa chỉ nhà mình ở cho can phạm.Ngay trong bức thư đầu tiên, Xergay đã yêu cầu cô hãy mở loa truyền thanh đúng vào ngày sinh nhật của cô, mùng tám tháng mười hai. Hôm đó, cô đang ở trong bệnh viện trông nom mẹ. Cô lúi húi cắt quả táo trên chiếc bàn con duy nhất trong căn phòng nơi mẹ cô nằm, bày ít đồ hoa quả, bánh ngọt và chai rượu sâm banh. Lễ sinh nhật thật khiêm nhường. Đột nhiên mẹ cô kêu lên thất thanh và chỉ tay về phía chiếc loa truyền thanh treo ở trên tường: “Vêrotrka, bản nhạc đề tặng con nhân ngày sinh nhật kìa”. Bà vừa dứt lời thì tiếng vĩ cầm vút lên, tràn ngập trong không gian yên ắng của căn phòng trắng toát. Vera xúc động quá đánh rơi cả con dao đang cầm trên tay xuống nền nhà. Cô lặng lẽ đi đến bên mẹ và ngồi xuống, vòng tay ôm lấy thân hình gầy gò của bà. Hai mẹ con yên lặng lắng nghe như nuốt lấy từng âm thanh huyền diệu đang nhảy nhót lung linh cùng với những tia nắng rực rỡ trên nền tuyết trắng tinh ngoài cửa sổ. Ánh mắt mệt mỏi của người mẹ bỗng vụt trở nên tinh anh, làn da trắng xanh như hồng lại và một nụ cười sung sướng, hạnh phúc nở trên đôi môi khô héo của bà. Bản nhạc kết thúc mà hai mẹ con vẫn ngồi bất động một lúc để lắng nghe lời giới thiệu của người phát thanh viên: “Các bạn vừa thưởng thức nhạc phẩm tự sáng tác và trình bày của tù nhân Xergay Nikolaievich, trại giam số 7 nhà tù Khalodna Gara nhân ngày sinh nhật của người yêu”. Vera giật mình về lời giới thiệu đồng thời cũng là lời tỏ tình của Xergay qua đài phát thanh thành phố. Cô lặng lẽ lau những giọt nước mắt hạnh phúc đang trào ra trên má. Cô quay sang nhìn khuôn mặt mẹ, cũng thấy những giọt nước mắt lặng lẽ chảy trên làn da nhăn nheo của bà. Mãi một lúc sau, bà khẽ lắp bắp: “Tùy con quyết định lấy hạnh phúc của đời mình”.
Sang năm mới, anh viết thư ngỏ lời cầu hôn cô. Đến cuối tháng giêng, vụ án lại mở ra những hướng điều tra mới. Cần phải tái hiện lại hiện trường. Trong câu chuyện về gia đình mình, Vera vô tình để lộ cho anh biết chuyện bà mẹ ốm nặng, cần một khoản tiền để tiến hành phẫu thuật. Xergay yêu cầu thẩm phán cho phép mình được về thăm nhà. Vera không thể từ chối được. Sau đó còn một cuộc gặp gỡ nữa được xem như một món quà sinh nhật của Xergay. Hai người ở lại trong ký túc xá của trường đại học sư phạm nơi mẹ anh làm kế toán. Bà mẹ cho con trai ăn uống xong thì bỏ đi để đôi uyên ương ở lại với nhau. Tất nhiên, nữ thẩm phán hiểu rằng cô đang dung túng cho một tội lỗi. Song, cô còn trẻ, cô không thể chiến thắng được bản thân mình.
Thế rồi, đến một hôm như thường lệ, hai người gặp nhau ở ký túc xá, Xergay nhờ nữ thẩm phán cắt tóc hộ. Sau đó, anh bước ra ngoài sân để rũ chiếc khăn phủ lên vai dính đầy tóc con, rồi... không thấy quay lại nữa. Một giờ sau, cô gái cả tin mới hiểu rằng, người yêu đã biến mất. Những người bạn đồng nghiệp sau khi biết được tin này rất lấy làm kinh ngạc. Cuối cùng, người ta quyết định bắt nữ thẩm phán để làm sáng tỏ tình hình. Vera phải ngồi mười lăm ngày trong xà lim dùng cho hai người. Trong đó nhốt cả những nhân viên cảnh sát bị mắc các tội khác nhau. Họ ở tầng trên. Nhiều hôm, họ chuyển cho cô những túi thực phẩm căng đầy. Người ta còn đưa thêm vào phòng giam một bà giám đốc trại thiếu niên nhi đồng vì tội thâm thụt công quỹ và một nhân viên nhà băng. Chính thời điểm này, cô biết mình đã có mang. Vera được đưa khỏi trại giam ba tháng sau đó. Một ngày nắng đẹp, cỏ cây đã nhú mầm xanh biếc. Những người qua đường ngạc nhiên quay lại nhìn cô gái vẫn khoác trên người bộ đồ mùa đông nặng trịch. Cô không còn đến một xu trong túi. Mãi sau cô mới lê về được đến nhà, mệt mỏi rã rời, người hôi hám mùi nhà tù. Vừa nhìn thấy mẹ, cô không kìm nổi nước mắt, bật lên những tiếng nức nở như thời nhỏ bị đòn oan. Một tuần sau khi Vera được phóng thích, mẹ cô trút hơi thở cuối cùng ở tuổi năm mươi hai. Xergay bị bắt ngay sau đó một tuần vì bị con nợ của mình báo cho công an khu vực. Gã bạn thân kia bảo Xergay ngồi chờ ở nhà để đi lấy tiền và một lúc sau thì công an ập đến. Đối với nữ thẩm phán, bản án được khoan dung nhân đạo: ba năm tù treo. Kẻ phạm tội bỏ trốn: năm năm tù cải tạo đặc biệt. Hai người quyết định chính thức hóa mối quan hệ ngay khi Vera tới thăm anh lần đầu tiên trong trại cải tạo. Cô viết lên mảnh giấy mấy chữ nguệch ngoạc: “Em đang có mang” và đẩy về phía Xergay ngồi đối diện. Anh chộp ngay lấy mảnh giấy đó và chồm cả người qua bàn để ôm hôn Vera, mặc cho người nữ quản giáo bước lại gần dùng chiếc dùi cui đập khẽ lên vai anh mấy cái nhắc nhở.
Đám cưới diễn ra ngay trong nhà tù, không có áo voan trắng. Nhẫn cưới chỉ làm bằng bạc rất đơn giản. Cứ ba tháng một lần, Vera lại được vào thăm chồng ba ngày liền. Xergay vừa làm thợ vừa biểu diễn đàn violon vào các dịp lễ tết trong nhà tù. Anh có đôi bàn tay vàng nên có thể kiếm được chút tiền để trang trải phòng khách sạn trong nhà tù. Anh lao động tốt và được giảm án. Đứa con đầu tiên và duy nhất của hai người chào đời. Ngay trong đêm đó, dưới ánh đèn tù mù của phòng giam chật chội, trên chiếc giường tầng hôi hám vì rận rệp, Xergay đã sáng tác một bản nhạc dành cho violon tuyệt vời đến mức anh được bộ văn hóa can thiệp để ra tù sớm và được nhận vào nhạc viện mà không cần qua thi tuyển...
Em đã bập bẹ kéo những nốt nhạc đầu tiên trên chính cây đàn vĩ cầm cũ kỹ của ông Xergay để lại. Em không quên được những giọt nước mắt cảm động làm nhòa đi đôi mắt trẻ thơ của em lúc đó, khi nghe lại băng ghi âm bản nhạc ông già đã sáng tác và biểu diễn trong nhà tù. Đúng hơn là những giọt nước mắt sung sướng, biết ơn của một đứa trẻ cô đơn, dễ bị tổn thương đã tìm được một chỗ dựa tinh thần chắc chắn. Âm nhạc của ông tràn ngập tâm hồn em như những dòng nước mát chảy về lênh láng trên những mảnh đất khô cằn nứt nẻ vì cảnh côi cút, tủi thân. Em gục đầu vào ngực bà Vera và thốt lên: “Cháu sẽ chơi đàn như ông Xergay, bà ạ”.
Những thanh củi cháy đỏ trong lò sưởi đã tàn lụi dần phủ một lớp tro dày, nhưng trong lòng em có một ngọn lửa khác bắt đầu được nhen nhúm lên giữa một đêm đông lạnh giá, những nhũ tuyết rủ xuống long lanh ngoài cửa sổ và đâu đó vọng tới dăm ba tiếng còi tàu lạc lõng, mơ hồ. Một bông tuyết rơi ngập ngừng, lơ lửng trong khoảng sáng của ánh đèn hắt qua cửa sổ ra ngoài khoảng sân lầy lội...
12
Trọng đến K. vào một chiều mưa sụt sùi. Mùa thu cố níu giữ những chiếc lá vàng cuối cùng trên trên các cành cây khẳng khiu và cả những dải băng màu vàng, màu xanh trên các cột điện, các tấm biển quảng cáo, dấu vết còn lại của cuộc cách mạng Cam rung chuyển thế giới. Vợ anh không đi cùng được vì ngại tình hình chính trị bên này chưa ổn định. Trên chuyến bay sang Ucraina, anh đã làm quen với ông Mai Tất Hiếu, giáo sư, bác sĩ đông y của Viện y học cổ truyền Nguyễn Bỉnh Khiêm. Họ nhanh chóng trở thành đôi bạn đường hợp gu vì cùng điểm đến là K. và cả hai cùng đi một mình. Ông giáo sư người thấp đậm, chắc nịch và ăn uống rất ồn ào chứng tỏ bộ máy tiêu hóa còn hoạt động tốt. Ông thích anh bạn đường đoán tuổi ông và rất lấy làm khoái chí khi Trọng đưa ra một con số kém hơn thực tế gần chục tuổi.
- Chắc bác có bài thuốc “nam dược thần hiệu” để kéo dài tuổi trẻ nên mới giữ được phong độ như thế này.
- Điều độ, bí quyết là ở chỗ đó - ông Hiếu cất tiếng cười sang sảng át cả tiếng động cơ ầm ì, khiến mấy vị hành khách ngồi gần quay cả lại nhìn.
Trong khoảng thời gian từ Bangkok đến Matxcova, Trọng đã kịp biết được khá nhiều về người bạn đường vui tính và hay chuyện của mình. Phải thừa nhận ông Hiếu có tài trong khoa ăn nói. Ông biết cách lôi cuốn người nghe bằng những ví dụ cụ thể như: “Tôi tận mắt chứng kiến...” hoặc “chuyện xảy ra với một người thân của tôi vào ngày này, tháng này...”. Ông thì thầm vào tai Trọng về mục đích chuyến đi sang K. của mình với lời dặn dò cẩn thận kèm một cái vỗ vai thân mật: “Cậu không được kể cho ai đấy nhé, tuyệt mật. Tôi đi vì nể quá thôi, người ta cứ mời đích danh mình mãi, chứ đi nước ngoài bây giờ khổ hơn ở nhà chứ báu gì”. Ông còn chìa cuốn hộ chiếu cho Trọng xem những con dấu đóng chi chít và nói bằng một giọng không giấu vẻ tự hào: “Chỉ còn hai cực của trái đất là tôi chưa đến”. Qua câu chuyện của ông thì trong giới y học nước nhà chẳng có ai là đáng để tôn làm sư phụ. Ông có cái tài là đưa ra rất nhanh và chính xác những tật xấu hay khuyết điểm của một nhân vật nổi tiếng nào đó trong giới, nhất là những chuyện dính dáng đến tình cảm lãng mạn, bồ bịch. Và, ngoài nghề y ra, hình như trên thế giới không còn tồn tại một thứ nghề nghiệp nào khác đáng để tôn trọng. Bệnh nhân của ông toàn là những nhân vật nổi tiếng trong chính giới, với người nào ông cũng có một cách đặt vấn đề hết sức tự nhiên, đại loại như: “Hôm thứ năm vừa rồi, tôi chữa cho bộ trưởng B. ngay tại biệt thự... hoặc vợ của đại sứ A mắc một căn bệnh thật không thể ngờ được...” Do tiếp xúc rộng nên Trọng không lạ gì kiểu người như vậy. Một mặt, anh vẫn cứ để tai lắng nghe những lời thao thao bất tuyệt của ông, thỉnh thoảng lại kèm theo những cái gật đầu vẻ đồng tình tán thưởng, nhưng mặt khác anh vẫn không dứt được những suy nghĩ về các vấn đề cần phải đạt được trong chuyến đi gấp gáp này. Số phận của Tổng công ty còn hay mất phụ thuộc vào vận may rủi đang chờ anh phía trước. Anh ngả đầu ra ghế, mắt hơi lim dim. Khung cảnh của mây trời xung quanh cũng làm cho anh nhẹ nhõm đi đôi chút, vì gánh nặng của những công việc hàng ngày tạm lùi ra phía sau. Nhưng anh đâu biết được rằng, chuyến đi này đã làm cuộc đời anh quay ngoắt sang một hướng hoàn toàn khác mà nếu bây giờ có ai đó tiên đoán cho anh trước thì anh cũng chỉ phẩy tay cười khẩy mà thôi.
Những hồi ức về một mảnh đất thời tuổi trẻ sôi động khiến mạch máu trong người anh đập mạnh hơn, rạo rực. Anh có dịp đi rất nhiều nước nhưng không hiểu sao chưa lần nào có được cái cảm giác kỳ lạ như bây giờ anh đang trải qua. Cảm giác như trở về nhà mình sau một thời gian dài đi vắng. Trong lúc anh đang mơ màng thì câu nói của ông bạn đường lọt vào tiềm thức của anh một cách đột ngột như thể một vị khách không mời xộc vào nhà chẳng thèm gõ cửa.
- Chúng tôi vừa ra tòa ly dị tuần trước. Chỉ tội hai đứa con gái. Chúng chẳng có tội tình gì trong chuyện này cả. Tôi quyết định đi chuyến này cũng là để giải tỏa tâm lý nặng nề của việc gia đình.
Sau lời tự thú chẳng ăn nhập gì với toàn bộ những chuyện mà mình đang thao thao bất tuyệt, ông Hiếu trở nên lầm lì ít nói hẳn. Con người ta vốn có cái nhu cầu chia sẻ nỗi bất hạnh của mình cho người khác, kể cả với người xa lạ mới gặp lần đầu, chính nhờ thế mà nó vơi bớt đi chăng?
Cả hai người hầu như không nói với nhau câu nào nữa, họ đều ngả đầu nhắm mắt như hầu hết hành khách trong khoang cho đến khi cô chiêu đãi viên vén tấm màn nhung đỏ bước ra thông báo, mọi người cần cài lại dây an toàn để máy bay chuẩn bị hạ cánh.
13
Theo như đã thỏa thuận, tôi đứng chờ Tachiana ở ngay trước cổng Học viện Âm nhạc. Trong lúc chờ đợi, tôi lật giở xem những trang báo, tạp chí đủ các loại trên sạp báo ngay lối xuống tàu điện ngầm. Ở đây ồn ào là vậy, nhưng thỉnh thoảng, xen giữa những khoảnh khắc im lặng trên đường phố lúc ngớt ô tô, vẫn vẳng đến những âm thanh trầm bổng của đàn violon hoặc piano, lặp đi lặp lại trong một bài tập của sinh viên từ những ô cửa sổ khép hờ trên tầng hai. Tôi cảm nhận được ánh mắt của bà bán báo không được thiện cảm cho lắm, lướt từ đầu đến chân và dừng lại ở đôi giày đã tàng, lâu ngày không được biết đến mùi si, dưới chân tôi. Đúng lúc đó, Tachiana xuất hiện trên ngưỡng cửa. Vừa nhìn thấy cô, tôi đoán ra ngay có chuyện gì đó không bình thường đã xảy ra. Khuôn mặt cô nhợt nhạt, mái tóc đẹp xổ tung một cách cẩu thả. Tôi bước vội về phía cô, suýt đâm phải một bà đang bê một bình hoa to đi ngang qua trước mặt. “Không có mắt hay sao?” bà ta định sừng sộ với tôi. May mà chiếc bình không rơi nên bà ta chỉ lẩm bẩm mấy câu thiếu văn hóa rồi lại đi tiếp.
- Có chuyện gì thế? - tôi hỏi và kéo tay Tachiana tránh sang một bên của dòng người đi lại trên vỉa hè.
- Hôm nay em không thể làm việc tiếp được. Bên An ninh họ gọi sang thẩm vấn - câu này cô chuyển sang nói bằng tiếng Việt. - Thế anh không biết chuyện gì à? Thị trưởng vừa tự sát đêm qua.
- Thật thế à? Kinh khủng thật. Ông ấy mới phát biểu trên truyền hình cơ mà. Thế nhưng, em thì có liên quan gì mà sợ? - trong giọng nói của tôi có gì đó hơi bất bình.
- Em chưa thể nói bây giờ cho anh được. Anh thông cảm nhé, em phải sang bên đó ngay bây giờ, xe đang đợi kia kìa - cô hất đầu về phía bãi đỗ xe cách đó không xa. Tôi nhận ngay ra biển số đặc biệt của chiếc xe Toyota màu đen. Tachiana bước vội tới và trước khi bước vào xe, cô ngoái đầu lại nhìn. Chiếc xe đi được một lúc rồi mà tôi vẫn chưa hết bàng hoàng vì việc vừa xảy ra. Tôi bước lại quầy bán báo và hỏi mua tờ “Sự kiện K.” mới nhất. Ngay trang hai, một cái tít in đậm đập ngay vào mắt: “Vào hồi 19 giờ 05 phút, Thị trưởng K., ông Vikor Kovalenko đã tự sát tại nhà nghỉ ngoại ô của mình, bên bờ hồ Xantovka cách K. 60km. Theo những kết quả điều tra ban đầu, vợ nạn nhân tìm thấy xác chồng mình trong nhà tắm hơi với hai vết đạn, một vào cằm và một vào thái dương. Người ta tìm thấy lá thư tuyệt mệnh của nạn nhân để trong túi áo ngực, viết bằng bút chì trên trang vở xé vội, với dòng chữ: “Tôi ra đi với lương tâm trong sáng. Tôi chỉ là nạn nhân của một trò chính trị bỉ ổi. Hãy tha thứ cho tôi”. Kết luận sơ bộ của thanh tra: tự sát. Ông Kovalenko, năm mươi ba tuổi, có vợ và một con gái đang học đại học”. Chẳng phải khó khăn lắm tôi cũng nhận ra khuôn mặt quen thuộc của ngài Thị trưởng đã từng làm khách của tỉnh Khánh Hòa qua bức ảnh chụp xác nạn nhân nằm trên vũng máu, bên tai tôi vẫn còn văng vẳng những lời phát biểu của ông khi giới thiệu Tachiana tại khách sạn Hòn Ngọc Việt hai năm trước. Thời thế đã thay đổi. Ông Kovalenko bị buộc vào tội sử dụng tiền công quĩ một cách bất hợp pháp cho hoạt động tranh cử của đảng “Dân chủ” vừa qua.
Tôi lững thững bước xuống ga xe điện ngầm. Trong đầu cứ day dứt mãi một câu hỏi: “Một nghệ sĩ vĩ cầm như Tachiana thì có liên quan gì tới cái chết của ông thị trưởng? Chẳng lẽ cô còn hoạt động chính trị nữa mà tôi không biết? Hay giữa cô và ông ấy có một mối quan hệ nào đó không bình thường?”. Tôi bỗng nhớ có lần cô thổ lộ rằng: “Thế giới của các văn nghệ sĩ cũng khốc liệt và tàn nhẫn đến phi nhân tính”.
Tôi bỗng giật mình vì tàu đã đến ga cuối cùng, hành khách chen lấn nhau ra cửa. Đến lúc này tôi mới biết là mình đã đi quá ga. Tôi lững thững đi đi lại lại trên sân ga đông nghẹt người, ai nấy đều vội vã, hối hả. Nhìn lên chiếc đồng hồ điện tử to tướng treo trên tường, tôi thấy vẫn còn sớm để về nhà. Vả lại, sống một mình, chẳng đợi ai mà cũng chẳng ai đợi mình thì có khác gì đâu. Tôi quyết định tạt qua thăm ông Việt Văn, chủ bút tờ báo “Văn Lang” bằng tiếng Việt tại tòa soạn nằm trên đường Gogol. Trên đường, tôi không quên ghé qua cửa hàng mua hai chai vang đỏ chính hiệu Crưm, thứ rượu mà ông bạn lớn tuổi của tôi rất ưa chuộng. Mọi lần, tiền lẻ bao giờ tôi cũng lấy lại, nhưng lần này tôi bỏ lại như một kiểu boa vậy. Có lẽ là vì nụ cười lẳng lơ của cô bán rượu dành cho tôi, mặc dù tôi cũng thừa biết là không chỉ một mình tôi thôi.
14
Ngay cái bút danh mà ông tự đặt cho mình cũng là một thông điệp mà ông muốn gửi gắm - Một văn sĩ Việt Nam - cho dù ông đã sống lưu vong tại đây hơn ba chục năm và lấy hai đời vợ Tây. Ông là người không theo một thứ chủ nghĩa nào cả. Cuộc đời của ông đã có vóc dáng một cuốn tiểu thuyết rồi, đầy đủ các mùi vị chua cay, ngọt bùi của trần gian: tuổi thơ nghèo đói, cuộc đời lính tráng, sinh viên, lao động công trường, tù tội, bệnh tật, tình yêu và gia đình chia ly... Tôi biết, trước khi lấy người vợ thứ hai, ông đã ăn ở với một cô gái điếm mười sáu tuổi nhiều năm trời. Ông có một biệt tài là kể chuyện. Nghe ông kể chuyện và đọc văn của ông là hai sản phẩm khác hẳn nhau. Trên báo “Văn Lang” ông chỉ viết duy nhất một chuyên mục “Những mảnh đời xa xứ”, về cuộc sống của người Việt tại các nước thuộc Liên Xô cũ. Tôi vẫn còn nhớ như in câu chuyện ông kể cho tôi về cuộc tình của ông với người vợ thứ hai của mình trong một lần tôi vào thăm ông tại bệnh viện điều trị chuyên khoa tim.
15
Crưm khiến ông Văn kinh ngạc. Không phải núi hay những thảm cỏ tuyệt đẹp, không phải những thân cây bạch dương lực lưỡng hay những khu di tích bảo tàng nổi tiếng. Chính là biển - một cơ thể sống khổng lồ mà ông say sưa chiêm ngưỡng hàng ngày, hàng giờ từ khi mới đặt chân tới đây sau khi mãn hạn tù. Khoảng không gian huyền diệu, vô biến đó hòa quyện với bầu trời xanh thăm thẳm ở đường chân trời xa tít tắp, quyến rũ và làm ông say đắm. Ông có thể yên lặng ngồi trên kè đá hàng giờ liền để ngắm nhìn những con sóng mềm mại, dịu dàng mơn trớn vuốt ve những mỏm đá xanh nhô ra biển. Chúng biến đổi màu sắc dưới ánh nắng mặt trời, lúc màu xanh da trời, lúc màu xanh lá cây, nhưng có lúc lại vàng sóng sánh. Biển đã trả lại cho ông sức khỏe bị hủy hoại vì cuộc sống lao động nặng nhọc nơi tù đày, tình yêu cuộc sống và những mơ ước, những ý định sáng tác mới. Tại đây, ông đã viết những dòng đầu tiên của cuốn tiểu thuyết “Đồi băng giá”, cuốn sách mang chất tự thuật về chính cuộc đời ông. Không hiểu sao, chính tại một nơi có điều kiện nghỉ ngơi tốt như ở Ianta, ông lại bị mất ngủ, nhất là về gần sáng. Ông buộc phải đến gặp bác sĩ và người ta kê cho ông một liệu trình điều trị chạy điện một tuần. Trong căn phòng nhỏ có hai giường, bệnh nhân nằm bên lại là một người phụ nữ mà mới thoạt nhìn ông có cảm giác như đã gặp ở đâu rồi. Hôm đầu tiên, hai người im lặng không nói với nhau một câu nào. Nhưng đến hôm thứ hai thì ông không chịu đựng nổi bầu không khí im ắng như trong phòng biệt giam trước đây vậy. Vẻ ngoài của ông có cái gì đó trông giống diễn viên Lý Tiểu Long nên thường gây được sự chú ý của phái nữ. Người phụ nữ cũng không phản đối tiếp chuyện.
- Chị cũng bị mất ngủ à? - ông buột ra một câu hỏi có vẻ hơi thừa.
- Cũng thỉnh thoảng - giọng chị trầm trầm, phát ra từ trong lồng ngực.
- Có đỡ không?
- Hiện chưa cảm thấy gì rõ rệt cả.
- Sau liệu trình này, chị sẽ làm gì nếu không bí mật?
- Tôi cũng chưa biết, có thể ra phơi nắng ngoài bãi biển.
- Chị có muốn đi thăm quan khu bảo tàng của nhà văn Chekhov không?
- Hay lắm à?
- Tôi nghĩ vậy. Khi chị về nhà, thế nào cũng có người hỏi: “Đã đến thăm nhà nghỉ của Chekhov chưa?” lúc đó chị sẽ trả lời ra sao?
- Anh thuyết phục được tôi rồi đó.
Một trong những nhà văn mà ông kính trọng nhất đã từng sống và làm việc tại đây.
- Chị hãy nhìn lên bức ảnh này - ông Văn chia sẻ những ấn tượng và suy nghĩ của mình với người phụ nữ mới quen khi hai người bước vào ngôi nhà nghỉ mặt trước trông ra biển. - Đây là anh em gia đình Chekhov. Một người là danh họa, một người nữa cũng viết truyện ngắn. Còn đây là cô em gái, người xây dựng và bảo tồn ngôi nhà bảo tàng này. Còn đứng cạnh ông là bà vợ, một nữ diễn viên nổi tiếng thời đó. Bà sống lâu hơn chồng cả nửa thế kỷ.
- Anh là người nước ngoài mà biết về Chekhov nhiều hơn cả tôi - Nhina Nikolaievna, tên của người bạn mới, thốt lên ngạc vẻ ngạc nhiên.
- Tôi học ngành tiếng Nga và Văn học mà.
Khi hai người bước chân ra phía ngoài hiên nhà bảo tàng, trời bỗng lất phất mưa, thứ mưa bóng mây rất điển hình của vùng nghỉ mát này.
- Chekhov còn là một nhà kinh doanh bất động sản sừng sỏ đấy - ông Văn lơ đãng nói. - Có vẻ như hai lĩnh vực đó không ăn khớp với nhau và người đời cũng cố làm ngơ cho những chi tiết thô ráp đó của một văn hào. Họ thích thần tượng hóa những con người nổi tiếng.
- Thật thú vị, không hiểu giọng nói của nhà văn như thế nào nhỉ? Tôi là một cô giáo dạy nhạc nên rất muốn biết?
- Tôi cũng không rõ người ta có ghi âm lại giọng của nhà văn hay không. Còn tiếng đĩa hát mà chị đang được nghe đó là giọng của vợ Chekhov, Kniper Chekhova. Đây là đĩa hát một trích đoạn trong vở kịch “Vườn anh đào” mà vợ ông đóng vai Ranhevska. Thật là một giọng ca tuyệt diệu. Chekhov khi còn sống đã tiên đoán rằng sau một trăm năm nữa, trái đất sẽ trở thành thiên đường, nhưng trên thực tế loài người đang phải đối mặt với rất nhiều thảm họa.
- Đúng như thế - Nhina thích thú nhìn lên gương mặt của người đàn ông châu Á mới quen. - Thật tôi không nghĩ rằng mình lại gặp một người nước ngoài thông thạo về văn học Nga sâu sắc như vậy.
- Còn tôi thì lại không nghĩ rằng tại đây mình sẽ gặp một người phụ nữ xinh đẹp và duyên dáng. Nếu chị thích đi dạo, ngày mai chúng ta sẽ đến Gaspru nơi đại văn hào Lev Tolstoi đã từng sống.
- Tôi khó mà cưỡng lại được lời mời của anh - Nhina trả lời và khuôn mặt hơi ửng hồng.
Trong những cuộc dạo chơi như vậy, hai người dần dần trở nên thân mật và bạo dạn hơn. Nhina kể rằng cô đã có chồng và một đứa con trai năm tuổi. Chồng cô có tính hay ghen và rất gia trưởng. Còn ông Văn thì thổ lộ một cách chân thành, và có lẽ đây cũng là người đầu tiên, cho cô nghe về những năm lưu đày của mình, về người vợ trước của ông và nguyên nhân vì sao ông phải ngồi tù.
Và cứ thế, trong vòng nửa tháng, hàng ngày ông Văn dậy sớm, tập dưỡng sinh và ngồi vào bàn viết tiểu thuyết. Đến gần trưa, ông đi đến khu vật lý trị liệu với một tâm hồn bay bổng và dễ chịu vì lại được gặp người bạn gái mới quen và những ấn tượng của cuộc dạo chơi chiều hôm qua vẫn còn vương vấn đâu đó. Một lần, trong một buổi đi dạo, họ dừng lại ở gần một Restaurant gần sát bờ biển và trên cánh cửa của quán có đính một tờ thông báo rằng chiều tối nay tại đây có biểu diễn của một gánh hát rong người Digan.
- Hay chúng mình đến đây xem nhỉ? - Nhina sốt sắng đề nghị.
- Tất nhiên là nên đến. Vả lại, tôi chưa bao giờ vào ăn uống ở Restaurant - ông Văn thành thật thú nhận và không hề cảm thấy xấu hổ.
- Thì tôi cũng có hơn gì anh đâu.
Nửa tiếng sau, hai người gặp lại nhau trên bờ biển. Nhina mặc một chiếc váy màu trắng bó sát lấy thân hình hơi đậm và gợi cảm của cô. Ông Văn cũng bận bộ com-lê màu xám. Mặc dù nhà hàng đông nghẹt người nhưng người đàn ông phục vụ cũng tìm ra một chỗ trống ở gần cửa sổ. Rượu vang Crưm tuyệt hảo (có lẽ, chính từ đây mà ông Văn luôn sính loại rượu nho của vùng bán đảo này chăng?)
Song, niềm phấn khích thực sự xâm chiếm lòng hai người khi tiếng đàn violon cất lên réo rắt và trên sàn diễn xuất hiện những vũ nữ Digan trong những bộ váy hoa sặc sỡ. Những đôi mắt long lanh bốc lửa, những bộ ngực săn chắc khêu gợi. Cả gian phòng lặng đi khi âm thanh đầu tiên của bản tình ca cất lên. Đó là sự giải thoát của những tình cảm bị dồn ứ đang tuôn trào. Cả gian phòng vỗ tay ầm ầm và đâu đó nổi lên tiếng huýt sáo đòi diễn lại. Không gian xung quanh như bị nhiễm điện và tác động lên ông Văn một cách bất khả kháng. Người ông nóng bừng, tay toát mồ hôi lạnh. Ông chỉ ao ước được ghì chặt người phụ nữ ngồi bên cạnh vào vòng tay mình, thèm khát những cái vuốt ve, những nụ hôn mà rất lâu rồi ông không được nếm trải. Rõ ràng, một tình cảm tương tự cũng đang bùng lên trong lòng người phụ nữ đang ở độ tuổi Balzac*. Khi hai người ra khỏi quán, bằng trái tim phụ nữ của mình, Nhina cảm nhận được tâm trạng của ông Văn. Trăng trên biển thật hoang dã. Thời gian và không gian như ngưng đọng. Con đường nhỏ trồng toàn cây dương dọc bờ biển chỗ thì chìm trong bóng tối chỗ lại sáng trắng lên. Ánh lân tinh lấp loáng tung lên theo những con sóng đập vào bờ đá. Hai bàn tay của họ lần tìm xiết chặt lấy nhau. Nhina chủ động dừng lại bên cạnh một gốc cây và vùi đầu vào ngực ông Văn. Đôi môi mềm mại, ươn ướt của cô hôn nhè nhẹ lên ngực, lên cổ, lên má ông, để cuối cùng hút chặt vào đôi môi khô nẻ và run rẩy của người đàn ông mà bằng linh cảm cô đã đoán được sẽ thuộc về mình. Họ đi về phía nhà nghỉ và cứ mười lăm hai mươi bước lại dừng lại hôn nhau. Ông Văn cảm thấy mọi đau khổ mà mình phải chịu đựng hơn bốn năm qua hình như là cái giá phải trả cho những gì mà ông đang có trong hiện tại.
Ngày hôm sau, hai người gặp nhau ở cửa phòng điều trị. Nhina có vẻ như nửa muốn xin lỗi, nói rằng:
- Anh biết đấy, hôm nay là ngày cuối cùng của đợt nghỉ phép. Mai em đã phải lên đường về rồi.
- Thật thế à? - ông Văn hốt hoảng hỏi lại. - Thế mấy giờ em đi?
- Mười giờ sáng mai - Nhina khẽ mỉm cười, nụ cười độ lượng mang sắc thái mẫu tử.
Ông Văn lập tức quyết định rất nhanh: Đây là đêm duy nhất còn lại của hai người, họ phải được ở bên nhau. Ông dốc nốt số tiền mang theo và thuê một phòng trong khách sạn “Con đầm bích” khá sang trọng, tầng trên cùng. Khi ông nói điều này với Nhina trong nhà ăn tập thể của khu điều dưỡng, cô không hề ngạc nhiên như thể đã chờ đón ở ông chính bước quyết định này.
- Tùy anh thôi - cô nói nhỏ và lại tiếp tục ăn món xúp cá.
Hai người ngồi bên nhau trên chiếc xích đu ngoài ban-công. Họ uống sâm-panh, ăn hoa quả và ngắm nhìn cảnh hoàng hôn trên biển, ngắm nhìn những dãy núi mờ xanh ẩn khuất trong một lớp sương mỏng tang, bảng lảng như trong truyện thần thoại. Chẳng ai nói với ai câu nào. Nhina đặt cốc rượu xuống bàn và khẽ đẩy cửa đi vào phòng. Tiếng bàn chân trần đi trên lớp thảm đột ngột im lặng và sau đó là tiếng nước xả trong phòng tắm. Ông Văn vẫn ngồi im ngoài ban-công, lắng tai nghe. Ánh hoàng hôn chỉ còn lại một dải màu đỏ sẫm chạy gần như song song với đường chân trời. Mặt biển như phồng lên. Tiếng nước chảy ngừng lại. Không gian trong căn phòng trở nên tĩnh lặng khác thường. Tiếng công tắc điện trong phòng ngủ khô khốc vang lên khiến ông giật mình quay đầu lại. Nhina đứng ở giữa phòng, ngay dưới chùm đèn trần bằng pha lê lộng lẫy, hoàn toàn khỏa thân. Chiếc khăn tắm từ trên đôi vai tròn lẳn rơi xuống chân. Ông Văn thấy cổ họng khô lại, tim đập gấp gáp trong lồng ngực. Ông chống tay vào thành ghế đứng dậy, đầu óc chếnh choáng...
- Vào đi anh!
16
Tòa soạn báo “Văn Lang” nằm trên phố Gogol 13, đối diện chợ thực phẩm Sumska. Đó là một căn hộ ba phòng ở tầng một trong một khu nhà xây từ thời Stalin bằng gạch đỏ đã cũ kỹ đi nhiều vì thời gian, mưa gió. Đây là khu trung tâm thành phố nhưng yên tĩnh và rất nhiều cây cổ thụ, nhất là sồi và cây phong. Ngay khi còn đứng bên ngoài cánh cửa, tôi đã nghe thấy tiếng cãi cọ rất to vọng ra. Tay tôi đặt lên trên chiếc núm chuông màu đỏ lưỡng lự một lúc. Tôi ghé tai vào lỗ khóa và nghe rõ tiếng ông Văn nói với ai đó rất to, giọng bực tức: “Phải, tôi dát chết đấy, thì sao nào? Tôi nhổ toẹt vào cái anh hùng của các anh”. Sau đó là một thoáng im lặng. Một giọng ai đó nghe quen quen chen vào: “Thôi đi hai bác, nhận ra nhau đồng hương Nghệ Tĩnh trên đất khách quê người là quý rồi, nặng lời với nhau làm gì”. “Lại mấy ông vô công rồi nghề tranh luận chính trị vã đây, đúng là hết khôn dồn sang dại” tôi nghĩ bụng và nhấn chuông. Bên trong lại im phắc, sau đó là tiếng bước chân quen thuộc của ông Văn trên sàn nhà lát gỗ. Tôi đứng lùi lại một bước đối diện với con mắt thần để người bên trong nhìn rõ là ai.
- Tưởng ai, vào đi - ông Văn đẩy rộng cánh cửa ra và nói to. - Lại còn cầm cái túi gì nữa thế này? Đây đâu phải cửa quan mà cậu phải có gì lót tay mới được vào. Hôm nay tòa soạn có mấy ông khách mới từ trong nước sang công tác, chà, mới ngồi một lúc mà đã tranh luận rồi.
Tôi đi theo ông Văn qua một hành lang rộng, hai bên tường treo các bức tranh thêu phong cảnh Việt Nam nổi bật trên nền giấy bồi tường mới. Đến trước cửa phòng khách, ông Văn nép người sang một bên để tôi bước vào trước. Trong phòng có khoảng năm sáu người đang ngồi xung quanh chiếc bàn tròn để ở giữa nhà. Khói thuốc lá nồng nặc. Không hiểu sao chẳng ai chịu mở cửa sổ cho thông thoáng.
- Giới thiệu với mọi người, đây là một cộng tác viên của tờ báo chúng tôi, một văn sĩ ẩn dật nơi xứ người và không biết chừng sẽ là một Nguyễn Du thứ hai chứ chẳng chơi - ông Văn vẫn có cái giọng châm biếm đối với những người bạn văn chương ít tuổi hơn như vậy. - Còn các anh đây là khách của Trung tâm Y học cổ truyền Việt Nam.
Tôi bắt tay từng người và thốt lên:
- Ơ, anh Trọng, chào anh, mới sang khi nào đấy? Chị có đi cùng không? - tôi chợt nhớ tới lúc nãy đứng ngoài cửa nghe thấy giọng ai đó quen quen, thì ra là anh Trọng ở Khánh Hòa.
- Chị chưa sang vì ngại tình hình chính trị bên này chưa ổn định. Mới đấy mà đã gần hai năm rồi còn gì?
Tôi ngồi xuống chiếc ghế trống bên cạnh anh Trọng và đưa mắt nhìn từng vị khách, cố đoán xem cuộc tranh cãi của mọi người là về vấn đề gì. Ngay lúc đó, ông Văn đã lên tiếng:
- Giáo sư Hiếu đây lại là người đồng hương với anh, cùng người làng Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu - ông Văn vỗ lên đầu gối ông Hiếu ngồi bên cạnh. - Đây cũng là mảnh đất địa linh nhân kiệt, quê của Hồ Xuân Hương và nhiều danh nhân văn hóa Việt Nam khác.
- Và còn có cả quái kiệt - ông Hiếu nói chêm vào, chẳng che đậy sự ám chỉ của mình.
- Thật là không phải phép khi khách và chủ nhà lại cãi nhau, nhưng xét kỹ ra anh và bác Hiếu không chỉ là học cùng trường cấp ba mà còn có họ hàng xa với nhau. Bác Hiếu kể lại rằng khi nghe tin anh ở lại bên này không về, cả làng người ta chửi rủa anh, nói xấu gia đình anh, xem anh như một kẻ phản bội tổ quốc - ông Văn rót chè vào cốc của tôi. - Bác Hiếu chửi anh là thằng hèn nhát, tham sống sợ chết. Trong khi cả nước có chiến tranh thì anh lại lưu vong ở lại đây vì hạnh phúc của cá nhân mình. Có đúng thế không bác?
- Điều đấy anh biết rõ hơn tôi, cần gì phải hỏi. Nhà nước bỏ tiền cho anh đi học, người khác chết thay cho anh ngoài chiến trường.
- Thế bác có biết máu của người Việt ở cả hai phía đổ xuống thực sự vì ai không?
- Đúng là ông này ở nước ngoài lâu nên chẳng còn lòng yêu nước gì hết - ông Hiếu nói, cảm giác bất bình khinh bỉ lộ rõ qua nét mặt.
- Lòng yêu nước chỉ dành cho tầng lớp thống trị thôi, mà nó đâu phải là tài sản sở hữu riêng của một ai. Tôi cũng là một nhà yêu nước chứ không chỉ riêng các lãnh tụ độc quyền thứ tình cảm dễ bị hiểu lầm này. Tôi yêu nước theo cách của tôi.
Trong lúc mọi người tranh cãi, bàn luận sôi nổi về tình hình chính trị trong và ngoài nước thì anh Trọng ghé sát vào tai tôi nói nhỏ:
- Vợ anh có gửi một món quà cho nữ nghệ sĩ Tachiana. Em có thể giúp anh việc này được không?
- Tất nhiên là được. Em đang dịch giúp cô ấy bản luận án về nhạc dân tộc.
- Cô ấy có khỏe không? Hiện đang ở đây hay đi biểu diễn nước ngoài? Vợ anh bảo phải chuyển đến tận tay.
- Khỏe. Hiện nay đang ở đây, em vừa gặp cách đây một tiếng. Cô ấy có việc không dễ chịu lắm với chính quyền mới.
- Sao thế? Văn nghệ sĩ thì có liên quan gì tới chính trị.
- Cũng không hẳn thế. Xét cho cùng, có ai nằm hoàn toàn ở ngoài chính trị đâu. Mình không muốn dây vào nó thì nó lại dây vào mình. Có gì em sẽ gọi điện cho anh sau.
Sau khi khách ra về, ông Văn khép cánh cửa lại và buông ra một câu: “Không biết đến bao giờ người Việt mới hết hận thù, đố kỵ vì những thứ chủ nghĩa ngoại lai chắp vá du nhập vào đất nước mình? Chẳng khác gì căn bệnh di truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Đấy, mình không có những nhà tư tưởng lớn, những triết gia lớn làm mái che tinh thần cho cả dân tộc thì hậu quả là như thế đấy!” Ngừng lại một lát, ông nói tiếp:
- Tôi đoán chắc trăm phần trăm là mấy ông khách vừa ra nói với nhau là cái loại như tôi mà ở trong nước thì chỉ đáng tống vào nhà đá và thương hại cho cái cuộc sống lưu vong của tôi nơi đất khách quê người. Các ông ấy nhất nhất phải noi theo gương ông này, sống núp bóng ông nọ. Mở mồm ra là nói: “Tôi quen ông Bộ trưởng này, tôi được mời đến dự chiêu đãi tại nhà riêng của nhân vật nổi tiếng nọ...” Bản lĩnh cá nhân bị thui chột thì làm sao sản sinh ra được những nghệ sĩ lớn, những nhà tư tưởng lớn! . Các ông ấy ở trong nước nên tưởng mình là nhất, cứ thử đi ra ngoài xem!
- Mới biết “Lúa Mới” ngon hay là “Vang Crưm” ngon? - tôi nói giọng đùa cợt.
Ông Văn có lẽ bị cuộc nói chuyện không vui vẻ với các vị khách làm cho mất hết hứng, cứ ngồi thừ ra sau chiếc bàn làm việc của mình.
- Lại còn chê báo mình viết tiếng Việt chưa sõi, sai nhiều lỗi chính tả - ông lẩm bẩm, vẻ mặt cau có và nhìn không chớp mắt vào cây xương rồng con lởm chởm đầy gai nhọn để trên bàn.
17
Chẳng cần phải đợi Tachiana gọi điện, ngay buổi tối hôm đó, tôi đã được biết về vụ việc của cô qua kênh truyền hình Simon của thành phố. Theo như lời của phóng viên làm thiên phóng sự này thì mọi tai họa đối với Tachiana bắt đầu từ việc cô có tham gia một chương trình ca nhạc ủng hộ cho ứng cử viên Tổng thống của Đảng “Dân chủ”, đảng cầm quyền cũ bị thất bại trong đợt bầu cử vừa qua. Thiên phóng sự đã đưa ra những hình ảnh và sự kiện khá bất ngờ đối với tôi và hình như ấn tượng về nữ nghệ sĩ violon nổi tiếng trong lòng người hâm mộ bị bôi đen và hạ thấp đi rất nhiều. Tôi cảm nhận ngay được ý đồ không tốt đẹp của những người làm thiên phóng sự này đối với Tachiana và gián tiếp đối với ông Thị trưởng của thành phố. Việc cử cô đi dự kỳ thi violon quốc tế cũng bị đưa ra với lý do như thể cô được giải không phải vì tài năng mà nhờ tiền lobby của ngài Thị trưởng đã quá cố. Người ta còn đưa ra một số bức ảnh chụp Tachiana và ông Kovalenko lúc thì ở ngoài bãi biển thuộc đảo Síp, lúc thì trong nhà hàng “Thăng Long” nổi tiếng của người Việt Nam. Người ta còn nhắc đến căn hộ sang trọng mà cô đang ở ngay trung tâm thành phố là một quyết định cấp nhà sai trái của Ủy ban Nhân dân tỉnh, bởi vì nhiều người còn xứng đáng hơn mà vẫn phải sống trong những điều kiện khó khăn, chật chội. Nguồn gốc người Việt của cô cũng được nhắc tới nhưng dưới một góc nhìn hạn hẹp kiểu dân tộc chủ nghĩa... Tôi ngồi thừ trên đi-văng suy nghĩ mông lung. Một dự cảm không tốt lành cho Tachiana xâm chiếm mọi suy nghĩ trong đầu. Thiên phóng sự vừa qua rõ ràng là một bước chuẩn bị dư luận cho những những gì tiếp sau không có hậu. Tôi với điện thoại gọi cho Tachiana, nhưng trong ống nghe chỉ có những tiếng tút dài vô vọng. Có thể cô đã bị giữ lại Viện Kiểm sát để làm nhân chứng cho vụ án? Tôi gọi điện cho một số người bạn quen để hỏi tình hình thì chẳng ai biết gì hết. Tôi cảm thấy bất lực như một kẻ nhìn thấy người sắp chết đuối dưới sông mà bản thân lại không biết bơi.
Suốt đêm tôi không chợp mắt được và chỉ đến gần sáng mới thiếp đi với ý nghĩ: “Không thể để Tachiana một thân một mình như vậy. Cô rất cô đơn”. Tự đáy lòng mình, trong bóng tối của căn phòng chật hẹp tại ký túc xá sinh viên nằm gần sát ngoại ô thành phố, tôi tự thú nhận với chính bản thân mình: Tôi đã yêu.
18
Tôi thật không ngờ là một cô gái trẻ đẹp, tài năng, nhiều người ái mộ và dịu dàng như Tachiana lại bị nhiều kẻ ganh ghét như vậy. Cái cung cách trả lời, cái nhìn khinh khỉnh qua cặp kính, cái kiểu phủi bụi làm phách trên ve áo của bà hiệu trưởng Nhạc viện khi thấy tôi bước vào hỏi về tình hình của Tachiana đã nói lên tất cả:
- Anh là gì với cô ta? - giọng bà ta đầy vẻ xách mé.
- Một người đồng hương.
- Đi mà hỏi ông Kovalenko của cô ta ấy - bà sẵng giọng. - Hoặc sang bên Viện Kiểm sát mà hỏi, ở đây tôi không có thời gian tiếp những chuyện vớ vẩn ấy đâu.
Nói xong, bà ta làm ra vẻ đang bận chúi mũi tính tính toán toán gì đó trên bàn. Đôi môi tô son đỏ chót bặm lại trông thật đáng ghét. Tôi khép cánh cửa lại sau lưng, cũng không thèm chào một câu. Cô thư ký gầy đét của bà ta ngồi ở phòng ngoài đang đánh móng tay sau chiếc máy tính cũng nhìn tôi với ánh mắt câng câng. Tôi nhận thấy tấm ảnh Tachiana khổ lớn treo ở đầu hành lang trong buổi nhận giải thưởng âm nhạc quốc tế đã bị hạ xuống đang còn để dưới gầm bàn cô ta, thay vào đó là tấm áp-phích của ban nhạc rock Viagra trong buổi biểu diễn trên quảng trường Tự Do ủng hộ cho ứng cử viên Tổng thống của đảng Cam. Chính trị đã làm thay đổi các giá trị và thần tượng nghệ thuật. Tôi đi ngược lại một đám đông sinh viên, kẻ vác kèn, người đeo violon sen ồn ào huyên náo cười nói bô bô. Ai nấy ăn mặc đều kỳ dị, khác người. Có một cô tóc vàng xõa xượi khoác cả một tấm chăn rách bươm trên mình. Sự vui vẻ, hồn nhiên của họ khiến tôi chợt cảm thấy buồn và thương cho hoàn cảnh của Tachiana. Bây giờ tôi mới hiểu được, cô phải sống và làm việc trong một môi trường đầy sự ghen ghét đố kỵ như thế nào? Tôi hình dung ra việc cô đang bị tạm giam ở bên an ninh mà bồn chồn không yên. Chắc chắn những kẻ như bà hiệu trưởng kia sẽ lại đâm bị thóc chọc bị gạo, ăn không nói có để Tachiana phải ngồi tù mới thỏa cái tâm đố kỵ ác độc. Nếu không giúp cô lúc này, rất có thể, bằng nhiều thủ đoạn đê tiện, những kẻ không ưa cô sẽ đẩy cô vào vòng tù tội. Không có tội còn bị đặt điều vu oán giáo họa, huống hồ đây lại có dính líu đến một nhân vật nổi tiếng của chế độ cũ đang bị cật vấn để phải đi đến bước tự sát. Làm gì để giúp Tachiana bây giờ? Ở địa vị tôi, một anh sinh viên mới tốt nghiệp trường Tổng hợp khoa Lịch sử được vài năm, đang còn phải kiếm tiền bằng đủ các nghề để theo đuổi một hoài bão từ khi còn bé là trở thành nhà văn.
Tôi rẽ vào quán ăn bình dân “Con gà trống” nằm dưới tầng hầm của Viện bảo tàng Mỹ thuật. Đây là nơi ăn uống của giới sinh viên mấy trường nghệ thuật trong khu Atakara Iarosha. Tôi rất thích quán ăn này bởi cách bài trí phóng khoáng cũng như các món ăn. Vào các chiều thứ Năm diễn ra các show diễn của sinh viên Nhạc viện và trường Múa ba-lê. Ờ mà hôm nay đúng là thứ Năm rồi. Tôi ăn nhẩn nhơ để kéo dài thời gian đến lúc bắt đầu chương trình là vừa. Một cô gái mặc đồng phục của cửa hàng mang báo tới các bàn ăn để bán. Tôi lật giở chồng báo cô đặt lên bàn và chọn ra hai tờ có đăng tin về vụ án mà tôi quan tâm. Tờ “Tuyệt mật”có chạy hàng tít: “Tôi không tin vào khả năng tự sát của ngài Thị trưởng” của đại biểu quốc hội Vladimia Sivkvich: “Tôi hoàn toàn có quyền không tin vào kết luận của Viện Kiểm sát về cái chết của Thị trưởng Kovalenko. Đúng là ngay sau khi phát hiện ra xác của ông tại nhà nghỉ ngoại ô, một loạt các quan chức của chính quyền mới đã đưa ngay ra kết luận: tự sát. Thường thường, cần phải chờ đợi kết luận của pháp y, rồi tiến hành điều tra. Ở đây, điều tra chưa có đã kêu ầm lên là tự sát. Điều này nói lên một điều: chính quyền muốn để trong nhận thức của dân chúng ông Kovalenko tự nguyện muốn kết liễu cuộc đời tội lỗi của mình. Nhưng tôi tự hỏi, liệu một người có thể bắn hai phát đạn vào đầu mình không? Phát đạn đầu tiên bắn vào cằm, viên đạn trổ một lỗ qua mũi, phát thứ hai vào thái dương. Nếu ông Thị trưởng muốn tự sát, hà tất ông phải dùng đến phát thứ hai? Tại sao ông không đưa súng lên thái dương ngay? Hay có ai đó đã ‘giúp’ ông trong việc này? Chắc chắn có kẻ nào đó trục lợi trong cái chết của ông”. Vị nghị sĩ này còn cho biết thêm một giả thuyết nữa là: “Phóng viên của kênh truyền hình số 7 đã quay được cảnh một ông thầy tu bước ra khỏi nơi giữ thi hài ông Thị trưởng”. Theo phong tục của Đạo Pravoxlavia, người tự tử sẽ không được rửa tội.
Tôi cảm thấy lo ngại thực sự khi đọc tiếp mẩu tin thứ hai trên báo “Sự kiện”: Ông Kovalenko bản tính là một người giao thiệp rộng, có rất nhiều bạn bè trong các giới, đặc biệt là giới nghệ sĩ. Một ngày trước khi xảy ra thảm kịch, tại chính ngôi nhà nghỉ này đã diễn ra một cuộc gặp mặt thân mật với sự tham gia của nhiều nhân vật nổi tiếng của thành phố. Nhiều nguồn tin cho hay, hình như ông đã biết trước được kết cục này và tổ chức cuộc vui chơi cuối tuần với đông đủ bạn bè như một lời chào vĩnh biệt. Hiện nay, Viện Kiểm sát đang tiến hành lấy bằng chứng của tất cả các nhân vật có mặt trong ngày hôm đó. Ngoài mẩu tin trên, báo còn đăng kèm một bức ảnh đám đông khách khứa vui vẻ đàn hát ngồi xung quanh một đống lửa to với dòng đề tựa sặc mùi trinh thám rẻ tiền: “Đêm hoan lạc trước hai tiếng súng”. Mặc dù báo in trắng đen và ảnh không được nét, nhưng tôi nhận ngay ra Tachiana ngồi trên một khúc gỗ sồi bên trái ông Thị trưởng. Một cảm giác nao nao khó tả dâng lên trong lòng tôi. Vậy là cô phải trả lời trước các thẩm phán về mối quan hệ của mình từ trước tới nay với nạn nhân. Báo chí sẽ lại được một dịp làm um lên xung quanh việc này. Những nhà tư tưởng của chính quyền mới sẽ khai thác triệt để và sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng để chứng minh một điều: chính quyền cũ là xấu, là thối nát, tham nhũng. Chính trên đống đổ nát này, những người mới có trong tay quyền lực sẽ xây tượng đài cho chính bản thân mình và đẳng cấp của mình.
19
Thực ra, tôi đã biết gì về cuộc sống riêng của Thảo? (Tôi xin mạn phép được gọi tên tiếng Việt của cô, để cảm nhận cô như một người đồng hương thực sự). Hoàn toàn rất ít ỏi. Những cuộc gặp gỡ với cô cũng có thể đếm trên đầu ngón tay, khi thì ở thư viện thành phố, khi trong một quán cà phê không tên tuổi, thỉnh thoảng trong những dịp Tết lễ của cộng đồng người Việt tại nhà hàng “Thăng Long”. Cô chưa bao giờ mời tôi về nhà riêng của mình. Giữa tôi và cô vẫn là một khoảng cách vô hình, cho dù tôi đã cảm nhận được hơi thở của cô, mùi nước hoa cô vẫn ưa dùng và nhìn rất sát chiếc bớt màu đỏ sẫm (đôi khi tôi vẫn ao ước được đặt lên đó một nụ hôn) trên cổ mỗi khi chúng tôi gặp nhau, ngồi cạnh nhau để làm việc với bản dịch luận văn của cô. Cô đang là một siêu sao, được báo chí, giới thượng lưu giàu có của Ucraina sủng ái. Với một vẻ đẹp độc đáo tràn đầy sức sống như vậy, cô sẽ chẳng bao giờ được yên thân trước những con mắt thèm khát của đám mày râu có cuộc sống quá đầy đủ dư thừa, chỉ nghĩ cách tiêu tiền sao cho hơn người.
Rất có thể, Thảo đã là tình nhân của ông Thị trưởng quá cố? Ý nghĩ này như một tấm phông lớn màu đen bất chợt hạ xuống ngăn cách tôi với thế giới xung quanh, những thân hình cuồng nhiệt, gần như khỏa thân của các vũ nữ, tiếng nhạc rock, tiếng huýt sáo la ó và những ánh đèn màu nhấp nháy...
Tôi bất chợt cảm thấy nóng mặt khi hình dung ra cái thân hình to lớn, lông lá với chiếc bụng bự của ông Kovalenko bên cạnh Thảo, mảnh mai thanh thoát. Một cái gì đó bứt rứt khó chịu khiến tôi không thể ngồi yên mà buộc phải đứng bật dậy và bước ra khỏi quán. Trong đời thiếu gì những cảnh trái khoáy như vậy. Điều này chắc chắn sẽ còn rắc rối to cho cô trong vụ án này. Ít nhiều, cô cũng phải biết được những chi tiết liên quan tới nguyên nhân dẫn đến cái chết của ông ta, nhất là những gì xảy ra trong cái đêm trước khi ông tự sát. Đó cũng chính là mục tiêu của hàng chục tờ báo lớn đang ngong ngóng tung phóng viên và tai mắt của mình khắp các cơ quan an ninh và Viện Kiểm sát với hy vọng tăng lượng phát hành gấp nhiều lần. Ở đời, người ta vẫn mưu danh và cầu lợi trên tai họa, bất hạnh của đồng loại như một thứ bản năng sinh tồn vậy.
Một ngọn gió đêm man mác thổi dọc con đường vắng, lốm đốm ánh đèn cao áp màu xanh dìu dịu. Chiếc tàu điện, có lẽ là chuyến cuối cùng, đang lắc lư, ì ạch tiến tới. Tôi là hành khách thứ hai trong toa. Gần phía cuối toa, một gã ăn mặc lôi thôi lếch thếch, nồng nặc mùi rượu đang ngồi ngủ gật, cái đầu rối bù lắc lư theo nhịp của con tàu. Thỉnh thoảng gã lại giật mình choàng tỉnh, ngơ ngác nhìn ra xung quanh như không hiểu mình đang ở đâu. Nước dãi chảy thành dòng bên mép gã. Dưới chân, một vũng nước đang chảy dọc theo rãnh của tấm ván gỗ lót sàn toa.
Người phụ nữ lái tàu điện quay đầu lại nhìn chúng tôi, rồi đưa tay lên che miệng ngáp.
Đến lúc này, tôi vẫn không thể ngờ rằng chính tôi là người đầu tiên được đọc lời khai nhân chứng của Thảo với các thẩm phán viên của Viện Kiểm sát về những gì xảy ra vào cái đêm kinh hoàng đó.
20
Phòng tiếp đón của Trung tâm y học Phương Đông tại K. nhốn nháo lên vì một cú điện thoại vào tầm giữa trưa. Ông Linh giám đốc, mắt còn đỏ quạch, đầu tóc chưa kịp chải sau một giấc ngủ chập chờn trên ghế, lập tức cho họp toàn bộ các bác sĩ lại.
- Sau ba chục phút nữa, người ta sẽ cho xe đến đón. Tôi đề nghị giáo sư Hiếu chịu trách nhiệm việc này. Ông ấy nói là mọi bệnh viện tốt nhất ở đây đã chịu bó tay...
- Bệnh thì chữa được nhưng mệnh không chữa được - giáo sư Hiếu khẽ nói, vẻ mặt gần như vô cảm, mấy ngón tay dùi đục thô kệch gõ nhịp khe khẽ lên mặt bàn.
- Đấy chỉ là lời biện hộ cuối cùng của người thầy thuốc thôi. Anh cũng nên hiểu rằng, anh bây giờ lãnh một trọng trách không chỉ của người thầy thuốc mà còn của một nhà ngoại giao nữa đấy. Anh sửa soạn đồ nghề và thay quần áo đi là vừa.
Chiếc xe Jip màu đen mở hết tốc lực trên con đường dẫn ra ngoại ô nắng chiều loang lổ. Trên xe, ngoài giáo sư Hiếu, người phiên dịch (chính là tôi) còn có một người đàn ông trạc tầm gần năm mươi, tóc bạc, nhưng râu vẫn còn đen. Nhác trông giống người vùng Kavkaz hơn là người Xlavơ. Ông ta ngồi phía trên, bên cạnh lái xe và hầu như không nói câu gì trong suốt thời gian trên đường. Người nói duy nhất là ông Hiếu. Ông vỗ vào đầu gối tôi mấy cái:
- Chà, cái ông văn sĩ gàn nửa mùa của cậu lắm lý sự ra phết. Sống kiếp lưu vong mà không biết thân, loại đấy ở nhà thì nó riềng cho ra bã, cả đời không ngóc cổ lên được. Nghe đâu, người vợ đầu đã đuổi ông ấy ra khỏi nhà thì phải, không đáp ứng được là nó đá đít thôi. Thật tội nghiệp cho ông ấy, sống tha phương nơi đất khách quê người thì cuộc đời còn gì là ý nghĩa! Bên này chỉ chơi gái là giỏi chứ làm được tích sự gì cho đời. Nghe nói, ông Văn lăng nhăng lắm phải không?
Tôi rất lấy làm lạ khi con người ta rất hay tự cho mình cái quyền được đánh giá hạnh kiểm của người khác, nhất là trong chuyện ái tình. Đối với người khác là “chơi gái” và “lăng nhăng” nhưng khi nói về bản thân mình thì lại chỉ toàn những từ ngữ mỹ miều như: tình yêu chân chính và trong sáng vô tư. Tôi thực sự cũng hơi phật ý khi nghe thấy ông Hiếu nói những lời nhận xét vội vã như vậy về ông bạn tôi. Ông Văn đến giờ vẫn chu cấp tiền cho người vợ đầu đã ly dị và đứa con trai lớn sắp tốt nghiệp phổ thông. Làm gì có cái chuyện “đá đít” như ông Hiếu vừa nói. Ông Hiếu mới chỉ có gặp ông Văn có một lần duy nhất và nghe phong thanh đâu đó về đời tư của ông tổng biên tập. Tôi tin rằng từ ngay cuộc gặp mặt đầu tiên giữa hai con người, sự yêu ghét đã được xác định rồi. Thật khó mà dứt bỏ được những mặc cảm ban đầu mang tính chủ quan. Tôi định cãi lại nhưng không hiểu sao lại thôi, chỉ im lặng nghe. Xe ngoặt vào một con đường nhỏ chạy men theo một hồ nước rộng. Ngay sát bờ neo mấy chiếc thuyền buồm trắng tinh và một chiếc xuồng máy sơn màu vàng tươi dập dà dập dềnh theo nhịp sóng xô vào bờ. Mở cửa cho chúng tôi bước vào tòa biệt thự là một người đàn ông cao lớn, trán hói, có một nốt ruồi lớn ở sát cánh mũi. Nhưng bàn tay ông ta đưa ra bắt lại rất nhỏ bé và mềm mại, trái ngược với thân hình đồ sộ của chủ nhân. Chiếc răng bịt vàng lóe lên trong một nụ cười hơi là lạ. Khuôn mặt cười nhưng đôi mắt màu xám vẫn lạnh tanh. Tôi cảm nhận ngay được một ma lực nào đó toát ra từ con người có cái gáy phẳng và to như cổ bò đang đi phía trước chúng tôi trên con đường lát gạch đỏ dẫn vào cửa chính của khu nhà hai tầng tĩnh mịch. Các bồn hoa xung quanh màu sắc sặc sỡ. Tiếng ong bay vo vo trên các nhụy hoa có lẽ là tiếng động to nhất ở đây. Tôi là người bước vào cuối cùng, trước lúc khép cánh cửa lại còn kịp nhìn bao quát cả khu vườn rộng theo phong cách Anh và thấy một chú sóc con kéo lê chiếc đuôi lông xù leo thoăn thoắt lên một thân cây sồi, cạnh hồ cá cảnh có những bức tượng đồng nhỏ của các con thú để rải rác hai bên bờ. Một người lao công đang dùng vòi nước tưới cho bãi cỏ xanh rờn được cắt xén phẳng phiu như một tấm thảm khổng lồ chạy ra sát bức tường cao vây quanh toàn bộ khu nhà.
Căn phòng của bệnh nhân nằm trên tầng hai. Các cửa sổ to rộng đều được kéo rèm che kín. Người hầu gái cao dong dỏng có khuôn mặt dễ ưa, đỡ chiếc vali nhỏ trên tay giáo sư Hiếu. Một bà già da trắng toát đang ngồi trên chiếc ghế phía đầu giường đưa ánh mắt vẫn còn tinh anh về phía chúng tôi. Gần cửa sổ, một người đàn ông còn trẻ, đeo kính trắng, có lẽ là bác sĩ riêng được mời đến, nhìn ông Hiếu từ đầu đến chân với ánh mắt không lấy gì làm thiện cảm lắm. Anh ta nói qua tình hình bệnh trạng với cái giọng mà tôi cảm nhận được là: chẳng còn hy vọng gì đâu, đừng tốn công vô ích làm gì. Tôi đo được ý nghĩ của tay bác sĩ qua ánh mắt sau tròng kính trắng của anh ta dừng lại hơi lâu trên chiếc ca-vát kiểu cũ hơi xộc xệch trên cổ áo ông Hiếu.
- Các ông hãy vì Chúa cứu giúp con tôi - bà già vừa nói vừa làm dấu thánh.
- Có lẽ mẹ nên về phòng mình nghỉ đi thì tốt hơn - người đàn ông nói, giọng ồm ồm.
Bà già đứng lên và lặng lẽ đi ra phía cửa như một cái bóng. Trước lúc bước ra, bà còn quay lại làm dấu thánh về phía chúng tôi một lần nữa và lẩm nhẩm điều gì đó như cầu nguyện.
Ông Hiếu ngồi xuống chiếc ghế lúc nãy bà cụ ngồi và xem mạch cho bệnh nhân. Ông nhắm mắt lại và cứ ngồi yên như vậy khoảng năm phút. Ông như biến thành một con người khác, hoàn toàn không phải là con người gân cổ lên cãi nhau với ông Văn, không phải là con người hơi lắm lời, ngồi lê đôi mách thích chõ mũi vào đời tư người khác như tôi biết. Nhìn khuôn mặt ông lúc này tôi mới chợt hiểu rằng con người này sinh ra để làm thầy thuốc. Ông chính là một nghệ sĩ trong nghề của mình.
- Liệu có hy vọng gì không, thưa giáo sư? - người đàn ông cúi đầu xuống, khẽ hỏi.
- Tôi chưa dám khẳng định, nhưng ta cứ thử vận may một lần cuối xem sao! Cho phép chỉ có tôi và bệnh nhân ở trong phòng này, có được không? Thêm cô giúp việc nữa.
- Tất nhiên là được - người đàn ông hấp tấp trả lời.
- Lỡ có chuyện gì xảy ra thì sao? - tay bác sĩ phản đối nhưng chủ nhân đã kéo tay anh ta đi về phía cửa.
Ba chúng tôi kéo nhau ra phòng bên ngồi. Đây có lẽ là phòng làm việc của chủ nhân nhưng trông lại có dáng dấp của một bảo tàng nghệ thuật. Bộ xa-lông da mà chúng tôi ngồi đặt đối diện một lò sưởi lát đá xanh với những hình chạm trổ tinh vi trên thân lò. Bức tường phía sau treo toàn kiếm và súng thời cổ, ước chừng có đến hàng trăm cái. Trên bàn làm việc rộng thênh thang là một bức tượng một con đười ươi bằng đá cẩm thạch màu xám đang chăm chú ngắm nghía trong tay một cái sọ người. Ba bức tường còn lại lát toàn sách trong những chiếc tủ gỗ quý đồ sộ. Tôi trộm nghĩ trong đầu, chắc nhiều cuốn sách ở đây chưa được sờ đến một lần. Lấy sách làm đồ trang trí có lẽ là cái mốt lâu đời nhất của giới trí thức châu Âu. Góc nhà kê một chiếc đàn piano trông cổ kính, hộp đàn để ngỏ, trên kệ còn một bản nhạc mà từ chỗ tôi ngồi vẫn có thể đọc được hàng chữ “Bốn mùa” của Traikovsky, chứng tỏ mới đây không lâu có ai đó trong nhà đã chơi. Một bức chân dung khá lớn của người ốm lồng trong khung nạm vàng treo trên bức tường phía sau bàn làm việc. Nhìn xuống chúng tôi là một người phụ nữ còn trẻ, trông có nét Do Thái với chiếc mũi khá thô so với khuôn mặt nhỏ nhắn, đôi mắt nghiêm nghị, màu đen như mắt người phương Đông.
- Tôi hai đêm nay thức trắng bên giường bà ấy - người đàn ông phá tan bầu không khí im lặng trong phòng. Ông rót nước ra mời tôi và ông bác sĩ rồi nói tiếp - Tuần trước vợ tôi vẫn khỏe mạnh bình thường, vẫn chơi ten-nít, bơi thuyền ngoài hồ, chiều chiều vẫn chơi đàn... Thế mới biết con người ta không biết thế nào mà nói trước. Lạy Chúa, may ra y học phương Đông có thể cứu được vợ tôi khỏi cơn tai biến này - nói đến đây, chủ nhân đứng lên đi sang phòng bên để lại tôi và tay bác sĩ. Vốn mất cảm tình vì cái nhìn khinh khỉnh kiêu căng của anh ta, tôi đứng dậy và bước lại bên các tủ sách, vừa muốn xem đó là những loại sách gì, nhưng cơ bản là để tránh bắt chuyện. Hình như cảm nhận được thái độ bất cần của tôi, tay bác sĩ lại lên tiếng trước:
- Các ông sang đây lâu chưa?
- Cũng chưa lâu - không thèm quay đầu lại, tôi trả lời cộc lốc.
- Việt Nam có đúng là nước đã đánh nhau với Mỹ không?
- Và thắng Mỹ.
- Ông nghĩ thế à?
- Hồi phổ thông ông có học lịch sử thế giới không?
- Tôi học dốt môn này. Tôi hiểu nôm na, đó là cuộc chiến giữa hai hệ thống xã hội, giữa hai hệ tư tưởng mà Việt Nam là bãi chiến trường.
Câu trả lời kiểu này tôi đã từng được nghe vài lần. Đối lại, tôi luôn sử dụng một câu: “Thì chính các ông cũng không tránh được hai cuộc đại chiến thế giới đó thôi. Và còn trong tương lai nữa, khó mà nói trước được”. Muốn hay không, cảm giác khó chịu vẫn ấm ách trong lòng. Tôi định mở mồm đốp chát lại thì cánh cửa phòng bật mở. Chủ nhà bước vào, ôm theo một chồng các ca-táp giấy. Ông ném nó lên bàn và nói trống không:
- Giờ phút này mà vẫn còn phải làm việc. Đã có kết quả gì chưa?
Tay bác sĩ nhún vai ra chiều không biết.
- Mới gần nửa tiếng đồng hồ, còn sớm mà - tôi nói. - Ngài có thể cho phép xem một số cuốn sách ở đây không?
- Ồ, tất nhiên rồi. Tất cả chỗ sách này là của hồi môn của vợ tôi đấy. Tôi làm gì có thời gian đâu mà đọc. Muốn đọc chắc phải đợi đến khi về hưu. Anh bạn trẻ cứ tự nhiên!
Tôi cắm cúi lật giở những trang sách của cuốn “Nguyên nhân sự tan rã và suy sụp của Đế quốc La Mã” của Gibbon. Tay bác sĩ riêng ngả người ra thành ghế, mắt nheo nheo nhìn lên trần nhà, cặp kính trắng vắt ngang qua trán. Chủ nhà dí sát mắt xuống chồng tài liệu để trên bàn, tay phải ông ta sờ soạng tìm bút trên chiếc giá để ngay trước mặt. Một con ong lạc vào phòng cứ dúi đầu kêu ri ri một cách ngu xuẩn vào tấm cửa kính càng làm cho không khí chờ đợi thêm căng thẳng.
21
Tôi không muốn đi quá sâu vào lĩnh vực y học mà mình hoàn toàn xa lạ, nhất là lại vào Đông y - nơi mà mọi khái niệm về con người của Tây y được nhìn từ một góc độ hoàn toàn khác, mang tính trừu tượng huyền học hơn. Nhưng chỉ sau ba lần châm cứu và bấm huyệt, bà vợ của ông nghị sĩ Fadman Nikolaievich đã nói được và đi lại gần như bình thường. Ngày nào hai chúng tôi cũng đến vào tầm buổi chiều. Công việc chữa trị kéo dài trong khoảng một tiếng đồng hồ. Liệu trình, theo như ông Hiếu nói, khoảng nửa tháng. Ngôi nhà bí ẩn đó trở nên quen thuộc đối với tôi. Chủ nhân đã chuyển đổi cách xưng hô thân mật hơn và trong khoảng một tiếng mỗi ngày đó, khi ông Hiếu bận điều trị, hai chúng tôi có dịp trao đổi trò chuyện nhiều vấn đề. Hóa ra, ông Fadman là một nhà sưu tầm tranh và ốc biển có tiếng. Trong một căn phòng rộng, sát phòng ngủ của hai vợ chồng ông, treo toàn các loại tranh cổ quý giá, tranh của các họa sĩ Nga, Ucraina và Do Thái nổi tiếng. Nền nhà của phòng tranh này là một bể nước nhân tạo bằng kính dầy với hơn hai ngàn con ốc từ khắp các châu lục trên thế giới. “Đây là bộ sưu tầm về ốc biển phong phú nhất trên toàn Liên xô cũ” - ông Fadman không giấu được giọng tự hào nói. Tôi cảm thấy ông có nét gì đó rất trẻ thơ khi ngắm nghía, nâng niu trên tay những chú ốc đủ các hình dạng, màu sắc. Cả hai chúng tôi đều phì cười khi ông đưa cho tôi xem một khúc xương dài khoảng bốn chục phân và hỏi:
- Cậu có biết đây là cái gì không? - rồi không cần đợi tôi trả lời, ông nói luôn - Dương vật của con hải mã trên Bắc cực. Nó là động vật duy nhất không biết thế nào là căn bệnh liệt dương. Mình mà có được một cái như thế này thì phải biết!
Nhưng, cũng có khi chúng tôi ngồi trong phòng bếp xem ti vi và nhấm nháp những quả anh đào chín mọng do cô giúp việc mang từ ngoài vườn vào. Chính vào một hôm như vậy, trên ti vi chiếu một chương trình hòa nhạc có sự tham gia của nữ nghệ sĩ violon Tachiana. Tôi không khỏi tự hào nói với ông Fadman:
- Mẹ của Tachiana là người Việt Nam đấy, ông có biết không?
Ông Fadman gật đầu và im lặng một lát rồi nói:
- Cô ấy có quen biết vợ tôi, đã đến đây chơi mấy lần rồi.
Tôi nhớ đến chiếc piano còn để ngỏ ở bên ngoài phòng khách.
- Chắc bà nhà cũng là nhạc sĩ?
- Vợ tôi trước dạy nhạc trong trường phổ thông. Ông cụ thân sinh là một nhạc sĩ nổi tiếng của Liên Xô cũ. Chiếc đàn ở phòng khách có tuổi đời gần một trăm năm rồi mà tiếng vẫn tốt. Con gái tôi đang học piano tại Anh quốc.
Hai chúng tôi im lặng ngồi nghe, thỉnh thoảng ông Fadman lại nhỏm người dậy với tay nhón một quả anh đào bỏ vào mồm một cách khoái trá. Tôi chợt nhớ tới một nhân vật của nhà văn Chekhov cả đời chỉ có độc một ước mơ duy nhất là được ăn quả anh đào lấy từ vườn nhà mình.
- Một nghệ sĩ tuyệt vời! - ông thốt lên khi chương trình kết thúc.
- Cô ấy hiện nay đang gặp khó khăn. Trên báo và truyền hình đưa tin, hình như có liên quan tới vụ tự sát của ông Thị trưởng - tôi nói.
Thật bất ngờ đối với tôi. Ông Fadman đứng dậy đi ra ngoài. Một phút sau, ông quay lại với một tập giấy, ngoài bìa đề chữ: “Hồ sơ số 003”.
- Người Việt Nam đã cứu vợ tôi. Không có gì bí mật với các bạn cả. Cậu có thể ngồi đây đọc tập tài liệu này thật thoải mái. Nó đáng đọc hơn nhiều cuốn sách vẫn được xem là kinh điển.
Nói đến đây, ông đặt tập hồ sơ xuống mặt bàn, bên cạnh đĩa anh đào đã vơi đi một nửa và bước ra ngoài. Tôi bàng hoàng cầm tập giấy lên và không tin ở mắt mình. Đây chính là bản tự khai của Thảo. Tôi nhận ra ngay nét chữ nhỏ hơi nghiêng nghiêng của cô. Tôi cảm thấy cay cay nơi sống mũi. Hít một hơi thật sâu để lấy lại bình tĩnh, tôi như một kẻ bị săn đuổi chạy đến sát mép nước, chẳng còn đường thoát nào khác là lao xuống dòng nước đang chảy xiết đầy bất trắc và bắt đầu đọc.
22
“Khi đặt bút viết những dòng này, tôi cũng xin nói thẳng một điều: trong huyết quản tôi có hai dòng máu, vừa châu Âu vừa châu Á. Có thể từ đây, nó là khởi điểm để tạo nên tính cách, diện mạo cũng như số phận của tôi. Tôi không kết tội những người đã sinh ra tôi, mà trái lại rất biết ơn mặc dù tôi không biết mặt cha mẹ mình. Trên đất nước này, có hàng ngàn đứa trẻ có tuổi thơ giống như tôi, song phần đông đều dẫn đến con đường thất học, nghiện ngập, đĩ điếm và tù tội. Nếu như tôi không rơi vào trong số đó (điều này chỉ có thể giải thích bằng sự may rủi) là vì trên đường đời cũng như con đường âm nhạc, tôi may mắn gặp được những con người tốt bụng cưu mang, nâng đỡ. Dù ở bất cứ vị trí nào, trên đài vinh quang của danh vọng hay như hiện nay, đang ngồi trong một căn buồng rộng bốn mét vuông, với những điều kiện sinh hoạt tối thiểu nhất, tôi vẫn phải cúi đầu chịu ơn những con người đó. Những suy nghĩ và hành động của tôi luôn luôn bị chi phối bởi những ký ức về quá khứ, của những gì tôi đã từng nếm trải. Những hành động mà tôi làm đó đều xuất phát từ lợi ích của chính bản thân mình, của những người thân và của đất nước mà tôi thuộc về nó. Tôi không tham gia hoạt động chính trị, nhưng điều này không có nghĩa là tôi không có những chính kiến, nhận định riêng của mình về các sự kiện chính trị đang xảy ra xung quanh, đang có tác động không trực tiếp thì gián tiếp lên cuộc sống của riêng tôi. Tôi quan tâm tới các vấn đề của lịch sử Ucraina và thế giới bởi vì nghệ thuật của tôi, những giá trị mà tôi theo đuổi nằm trong sự tương hỗ với môi trường này, với con người và đất nước này. Tôi cũng có cách nhìn riêng của mình về cuộc bầu cử vừa qua mà người ta vẫn gọi là “Cuộc Cách mạng Cam”. Đây là cuộc tranh giành quyền lực của những kẻ giàu nhằm bảo vệ lợi ích của gia đình và đẳng cấp của mình, đứng sau đó là lợi ích của tư bản nước ngoài. Tôi không cho rằng trong cuộc Cách mạng này, những khẩu hiệu “dân chủ”, “vì nhân dân” của cả hai phe là vì nhân dân đang bị bần cùng hóa. Đó là một trò chơi tung hứng của những kẻ có tiền trên đầu nhân dân mà thôi. Ở bất kỳ thời đại nào, nhân dân - một tập hợp người nhập nhòa, không diện mạo, không danh tính - dễ trở thành một đàn cừu ngoan ngoãn bị kẻ khác xô đẩy vì những mục đích của cá nhân họ mà thôi.
Chính dung mạo và tài năng đã đẩy tôi tới gần, thậm chí rất gần những con người mà ta vẫn xem là “nắm vận mệnh nhân dân”. Họ thường xuyên xuất hiện trên truyền hình, ăn mặc đạo mạo, nói năng toàn những từ ngữ trang trọng, văn hoa. Nhưng trong cuộc sống thực, nhiều người ích kỷ và thô tục đến bất ngờ. Một điều tự bản thân tôi xem đây là phát hiện của riêng mình: họ rất khinh bỉ và coi thường cuộc sống của người dân thường. Tôi đã trót bước vào vòng xoáy đó và bị nó cuốn đi. Nhưng tôi cũng đã nhanh chóng hiểu ra ngay luật chơi của giới được gọi là “quí tộc” này. Ở đâu cũng là cạm bẫy, ở đâu cũng là mua bán mặc cả. Nếu mình không muốn bị người ta dẫm đạp lên, rồi đến một ngày nào đó sẽ bị quẳng ra khỏi sân chơi như một thứ giẻ rách thì chỉ có cách bắt những người khác chơi theo luật của mình. Tôi bắt đầu cuộc chơi khi trở thành tình nhân của ông Kovalenko vào năm 16 tuổi. Ông ấy lúc đó là quận trưởng quận Lênin, nơi tôi đang theo học tại một trường năng khiếu âm nhạc. Ở vào tuổi đó, tôi tự cảm thấy mình già dặn và hiểu đời hơn những đứa bạn cùng lớp. Bởi vậy, đám bạn trai của tôi thường lớn hơn tôi nhiều tuổi. Ngay từ khi còn nhỏ, tôi đã cảm nhận được sức mạnh của sắc đẹp mà trời phú cho mình. Đám con trai đã đâm chém nhau vì tôi. Tôi không biết mặt mẹ tôi, bà cũng không để lại cho tôi một tấm hình nào, song tôi nghĩ bà cũng phải là một người phụ nữ có nhan sắc. Cuộc đời của những người phụ nữ có sắc đẹp không mấy khi được êm đềm, yên ả. Cây muốn lặng nhưng gió chẳng đừng. Đúng là như vậy. Vào tuổi 14, đi ngoài đường tôi đã cảm nhận thấy những ánh mắt thèm khát của đám đàn ông nhìn xoáy theo mình. Trên các phương tiện công cộng, họ cứ sán đến sát tôi tìm cớ này cớ khác để động chạm vào người tôi, ngay cả khi có các bà vợ đứng bên cạnh. Một lần tôi đứng chờ xe bên đường, một anh lái xe phóng ngang qua mải ngoái lại nhìn tôi đã tông xe vào cột điện. Tôi cũng nhận được cả những ánh mắt long lên sòng sọc của các bà, các cô mà thoạt tiên tôi cảm thấy sợ hãi, trốn chạy những ánh mắt đó. Song, đến tuổi 15 thì tôi đã hãnh diện ngẩng cao đầu bước thẳng không thèm để ý. Trong người tôi trỗi dậy một tình cảm vừa kiêu hãnh vừa khinh bỉ họ.
Một hôm, nhà trường tổ chức hòa nhạc nhân dịp kỷ niệm ngày sinh của nhạc sĩ thiên tài Moza. Khách mời rất đông. Tôi cũng lên biểu diễn, nhưng tiết mục của tôi lại gần cuối cùng. Biểu diễn xong, đang còn cho đàn vào hộp ở bên cánh gà sân khấu thì tôi thấy bà hiệu trưởng chạy xồng xộc đến với vẻ mặt lo lắng. Bà nói tôi lên ngay phòng giám hiệu có việc quan trọng. Tôi cũng bất ngờ và lo lắng hấp tấp đi theo bà dọc theo dãy hành lang có các rèm cửa bị gió thổi tung lên. Khi bước vào, tôi thấy một người đàn ông khoảng ngoài bốn mươi, thắt ca-vát màu đỏ rất hợp với bộ com-lê đắt tiền và mái tóc lốm đốm những sợi bạc nhưng được uốn chải công phu. Tôi đang còn bối rối chưa biết xử lý ra sao thì bà hiệu trưởng lên tiếng, giọng rõ ràng là hồi hộp, hai tay chắp trước ngực:
- Thưa anh, đây là học sinh Tachiana, người đã chơi bản Polone đó ạ.
- Cháu chơi rất tuyệt - ông ta nói và chìa tay chỉ vào chiếc ghế đối diện - Cháu ngồi xuống đây.
Lúc tôi lấy lại được bình tĩnh và từ tốn trả lời các câu hỏi của ông ta về gia đình, bố mẹ, cuộc sống... thì bà hiệu trưởng đã biến ra từ lúc nào, trong phòng chỉ còn lại tôi với ông Kovalenko. Ông bảo cứ gọi ông là Vitia cho thân mật. Ông lắc đầu ra vẻ ái ngại về hoàn cảnh riêng của tôi.
- Chú muốn cháu đến dạy và học đàn cùng với con gái chú ở nhà, có được không? Con gái chú nhỏ hơn cháu một tuổi.
- Hiện nay cháu rất bận, mẹ nuôi cháu đang ốm nặng - tôi lập tức trả lời, không đắn đo suy nghĩ.
- Mình cháu thì giúp được gì? Cháu cứ đến chỗ chú, chúng ta sẽ tìm cách giúp mẹ cháu, như vậy có tốt hơn không?
- Chú để cháu suy nghĩ ít hôm đã.
Tôi nói thế thôi nhưng trong bụng đã quyết định đồng ý rồi, bởi hoàn cảnh của tôi lúc này cũng rất là bi đát. Mẹ nuôi tôi ốm đã gần một tháng nay. Hai chúng tôi sống nhờ vào tiền trợ cấp eo hẹp, trong khi đó giá cả thực phẩm, tiền nhà, tiền lò sưởi, tiền điện tăng rất nhanh. Quần áo tôi mặc trên người đều là thứ quần áo cũ secondhand được hai mẹ con sửa lại theo các mẫu trên tạp chí. Có lần túng thiếu quá, cả hai mẹ con đã phải xuống tàu điện ngầm kiếm sống bằng cách: tôi kéo đàn, còn mẹ Vera đi đằng trước đệm bằng đàn ghi-ta và hát. Hai chúng tôi cũng kiếm được kha khá vì tôi biết nhiều quý ông nhìn thấy tôi đã không ngần ngại đặt vào trong chiếc túi tôi khoác bên vai những tờ giấy bạc khá lớn. Nhiều người hỏi thẳng giữa đám đông trong toa tàu điện ngầm xem tôi có bán thân không với giá rất cao. Có một người đàn ông nói với mẹ Vera rằng: bà có đứa con gái xinh như thế kia, thiếu gì nơi có thể kiếm được việc làm. Ông ta để lại địa chỉ và nói cứ đến ông ta sẽ giúp đỡ. Hai mẹ con đắn đo mãi cuối cùng không đi vì sợ có mưu mô gì đấy sau khi xem trên báo và truyền hình những vụ lừa đảo của các công ty buôn phụ nữ sang các nước Tây Âu làm nô lệ tình dục. Công việc làm thêm này tuy khá vất vả nhưng cũng khiến cho cuộc sống của hai mẹ con khấm khá lên đôi chút. Chúng tôi mua được chiếc ti vi màu thay thế cho chiếc từ thời hai ông bà mới lấy nhau. Nhưng cũng chính vì công việc này mà mẹ Vera phải vào nằm viện. Hôm đó là ngày chủ nhật, hai mẹ con dậy từ rất sớm để chuẩn bị cho một ngày lao động vất vả của mình. Tôi lấy sơ đồ hệ thống tàu điện ngầm của thành phố K. ra và đánh dấu những ga đông dân cư mà những tuần trước chúng tôi chưa tới. Chúng tôi ăn sáng thật no ở nhà để không phải chi tiêu những khoản lặt vặt trên đường. Lần nào cũng vậy, trước khi bước chân ra khỏi nhà, mẹ Vera lại đứng cầu nguyện trước ảnh thánh một cách thành kính. Chúng tôi đi bộ ra bến tàu điện ngầm gần nhất, bến Ga phía Nam, để tiết kiệm tiền đi xe buýt. Chỉ khi nào trở về, lúc đó đã thấm mệt, chúng tôi mới cho phép mình đi xe công cộng. Hôm đó, chúng tôi thu hoạch được rất khá, có lẽ vì là một ngày lễ tôn giáo của đạo Chính thống. Đến trưa, tôi nhẩm tính đã được một số tiền bằng cả tuần trước. Tôi nói với mẹ Vera rằng hôm nay nên về sớm thôi, hai mẹ con tạt vào cửa hàng hạ giá mua ít quần áo. Mẹ Vera bực mình quát lên, mắng tôi là “tư sản” chưa làm đã đòi hưởng thụ. Chưa bao giờ mẹ nặng lời với tôi như vậy. Quả là đến cuối giờ chiều thì chiếc túi đeo bên vai đã khá nặng vì những đồng tiền konek bằng đồng. Hai chân tôi mỏi nhừ, các ngón tay bấm phím như tê dại đi. Giọng mẹ Vera cũng đã khản. Hai chúng tôi bước ra và ngồi nghỉ trên sân ga. Tôi chuyển cho mẹ Vera túi tiền và bảo phải giữ cẩn thận vì đây là một ga vắng vẻ ít người xuống. Tôi vừa nói chưa dứt lời thì từ phía đoàn tàu vừa đi khỏi, bốn gã thanh niên phăm phăm chạy tới. Hai mẹ con kêu thét nhưng trên sân ga hầu như không có một mống người. Một bà già ngồi ở chiếc ghế cách đó không xa chẳng biết làm gì hơn cứ đưa tay lên làm dấu thánh lia lịa.
“Đúng hai mẹ con nó đấy”, trong cơn hoảng loạn, tôi nghe được một đứa thốt lên. Chúng xông vào hai mẹ con, chân đá tay đấm. Tôi ôm chặt hộp đàn chỉ sợ bị đập hỏng. Chính nhờ hộp đàn đó mà tôi cũng đỡ được những cú đấm trực diện. Biết túi tiền ở trong tay mẹ Vera, chúng vây cả lại và đánh bà vô cùng dã man. Tôi mấy lần lao vào cứu bà đều bị một thằng cao to co cẳng đạp ngã ngược trở lại. Mẹ Vera nằm sấp đè lên túi tiền, nhưng cuối cùng cũng bị chúng đánh ngất đi và túi tiền tuột khỏi tay. Cả bọn nhảy lên đoàn tàu lúc đó vừa lao tới. Một thằng trong bọn nói với lại bằng một giọng hăm dọa: “Biết thân thì đừng có bén mảng đến địa phận của chúng tao kiếm ăn!” Tôi gào lên kêu cứu nhưng đây là bến gần cuối nên các toa đều trống vắng. Vài người ló đầu ra nhìn qua cửa sổ vẻ sợ sệt. Tôi chạy vội lại bên mẹ Vera đang nằm bất tỉnh trên sàn, mặt mày bầm tím và máu mồm máu mũi chảy ướt đẫm cả chiếc áo đang mặc trên người. Mãi gần một tiếng sau mới gọi được xe cấp cứu.
Cả tuần đó, tôi bỏ học ở luôn trong bệnh viện để chăm sóc mẹ.
Tôi giấu không nói cho mẹ biết về lời đề nghị của ông quận trưởng. Có lẽ, như thế thì tốt hơn. Hai hôm sau, đang trong giờ học môn Lịch sử âm nhạc, cô thư ký của bà hiệu trưởng gọi tôi lên nghe điện thoại. Thoạt tiên, tôi tưởng có chuyện gì xảy ra trong bệnh viện với mẹ Vera nên quáng quàng chạy, tim đập như trống trận. Nhưng vừa áp chiếc ống nghe màu đen lạnh toát vào tai, tôi nhận ra ngay giọng của ông Kovalenko.
- Thế nào, mẹ cháu đỡ chưa?
- Cũng đỡ hơn ạ.
- Chú chờ câu trả lời của cháu đây.
- Cháu đồng ý.
- Hết giờ học, chú sẽ cho xe đến đón cháu ở cổng trường nhé. Tạm biệt cháu.
Đó chính là tòa nhà mà trên đường đi học tôi vẫn thường đi qua. Đã có lần tôi dừng lại khá lâu để được chiêm ngưỡng đàn chó tuyệt đẹp đùa giỡn nhau trong sân. Tòa nhà ba tầng được xây toàn bằng gạch đỏ, có tường cao bao quanh. Cánh cửa sắt sơn màu xám có tấm biển đề số nhà và tên phố màu trắng. Phố Công viên tháng Năm, đối diện với viện bảo tàng Lịch sử quân đội. Tôi bước xuống xe và hiểu rằng mình đang ở trong một thế giới hoàn toàn khác với thế giới phía bên kia cánh cổng sắt tự động. Một bà già ăn mặc gọn gàng sạch sẽ dắt tay tôi vào phòng khách và bảo tôi ngồi chờ trên chiếc ghế xa-lông da màu trắng. Tôi bẽn lẽn ngồi xuống, cố gắng đặt hộp đàn sao cho thật êm. Một cảm giác xấu hổ khiến tôi nóng bừng hai má khi nhìn xuống đôi giày đã cũ đi dưới chân và bộ váy áo bằng loại vải rẻ tiền do mẹ Vera tự may lấy, chúng tương phản một cách thảm hại với những đồ vật xung quanh. Tôi lóng nga lóng ngóng đứng ngồi không yên. Nhưng ngoảnh sang bên phải, nhìn vào tấm gương lớn treo trên tường, tôi cảm thấy yên tâm hơn vì trong đó là một cô gái với đôi mắt đen to, làn tóc đen dày óng ả đổ dài xuống sát thắt lưng, một thân hình cao dong dỏng, cân đối đang ở vào tuổi dậy thì. Chính tôi cũng cảm thấy hài lòng với diện mạo của mình. Tôi giật mình vì cánh cửa lớn ngay sát tấm gương bật mở, ba chú chó khoang lốm đốm đen lững thững bước ra, đi sau chúng là một cô gái mà tôi đoán chắc là con ông quận trưởng. Khuôn mặt và dáng người của cô đúc khuôn bố, có lẽ chỉ có màu mắt xanh là không giống. Cô ăn vận theo kiểu cao bồi, đầu đội mũ phớt trắng, áo gi-lê da và quần bò bó chẽn.
- Tớ tên là Anjela, chúng mình ra ngoài vườn ngồi đi.
- Mình là Tachiana.
- Tớ biết rồi, ba đã nói từ mấy hôm trước. Đừng sợ, chúng không dám cắn nếu chưa có lệnh của mình đâu.
Hai chúng tôi ngồi lên trên chiếc ghế xích đu ngoài vườn. Ba chú chó nằm phủ phục trên thảm cỏ xanh phía trước mặt, mấy cái tai khẽ xoay đi xoay lại. Bà già lúc nãy bưng đến cho chúng tôi một khay đầy hoa quả, bánh kẹo và nước giải khát. Đến lúc đó, tôi mới chợt nhớ ra rằng từ sáng đến giờ mình mới chỉ ăn một chiếc bánh rán nhân táo trong căn-tin trường. Bụng tôi sôi lên và nước miếng tứa ra trong mồm. Anjela bóc những thanh kẹo sô-cô-la và tung về phía ba con chó. Chúng nhảy lên trên không đớp gọn và giương những đôi mắt biết ơn của giống chó trung thành lên với chủ. Dưới ánh nắng ấm áp, chúng chậm rãi nhai kẹo và lim dim đôi mắt như mơ ngủ. Từ khóe mép của con chó nằm gần chúng tôi nhất nhểu ra một hàng dãi màu nâu nâu.
“Có lẽ, chi phí nuôi một con chó còn tốn hơn tiền sinh hoạt của hai mẹ con mình”, tôi thầm nghĩ trong bụng và một nỗi ghen tỵ dâng lên trong lòng khiến tôi cảm thấy khó thở. Nó làm nảy sinh trong tôi một câu hỏi đầu tiên: tại sao có những người giàu thế? Khi bước chân ra khỏi cổng, tôi cảm thấy toàn thân bải hoải vì những cảm xúc vừa trải qua trong ngôi nhà có cánh cửa sắt. Chiếc hộp đàn như xiết nặng bên vai, chiếc đế giày dán đi dán lại mấy lần lại bong ra khiến tôi đi bước thấp bước cao thật khổ sở. Chính lúc này đây, tôi mới cảm thấy thấm thía sự côi cút của mình. Trong bóng tối của con đường từ bến tàu điện về nhà, tôi bật khóc thút thít, những giọt nước mắt tủi thân, oán giận cho số phận. Hình như ông trời lúc đó cũng động lòng trắc ẩn nên cũng nhỏ xuống dăm ba hạt mưa lác đác, lộp bộp rơi trên những tàu lá hai bên đường. Nhưng ở đâu đó, trong một ngõ ngách sâu thẳm của tâm hồn, một ngọn lửa chợt bùng lên, cũng có thể là kết quả của sự cọ xát giữa những cảm xúc mãnh liệt khác nhau, nhưng cũng có thể đó là tiếng gọi của bản năng sinh tồn trỗi dậy: đó là ngọn lửa của ý chí vươn lên, một khát vọng không chịu thua kém. Tôi lẩm nhẩm thề thành tiếng rằng, bằng âm nhạc, tôi sẽ giành được sự hâm mộ của hàng triệu trái tim.
Trong khi sắp xếp đồ ăn gồm mấy củ khoai luộc, ít dưa chuột muối, ít mỡ muối vào túi để đem vào cho mẹ Vera, tôi rút từ trong hộp đàn ra gói bánh kẹo mà Anjela gói cho tôi trước lúc ra về. Không biết nói với mẹ Vera thế nào về chỗ quà này đây? Lấy tiền đâu ra mua? Cuối cùng, tôi quyết định không mang vào hết ngay một lúc mà chia nhỏ ra đem tới dần dần.
Những đồng tiền khá hậu hĩnh tôi kiếm được bằng việc dạy violon tại nhà ông quận trưởng cũng không cứu được mẹ Vera. Mẹ ra đi một cách êm ả sau khi yêu cầu tôi chơi lại cho bà bản nhạc ông Xergay đã sáng tác trong nhà tù để tặng bà nhân ngày sinh nhật. Khi tôi ngừng đàn, quay đầu nhìn lại thì trên màn hình điện tim chỉ còn là một đường vạch ngang câm lặng. Khuôn mặt mẹ hết sức bình thản, trong tay còn nắm chặt tấm ảnh đã ngả màu vàng của ông Xergay lồng trong chiếc lắc hình bầu dục.
Cuộc đời tôi lật sang một chương mới.
Một chương mà chỉ có tôi là nhân vật chính. Tôi không ngần ngại đặt tên cho nó là “Lao động và lao động nghệ thuật”. Tôi hầu như lảng tránh sự cọ xát với thế giới bên ngoài. Về nội tâm, tôi bỗng trở thành người lớn. Tôi sống trong cô đơn và cũng trưởng thành trong cuộc sống nội tâm đó. Những ca khúc đầu tiên ra đời. Trong chương này, nếu có một sự kiện bên ngoài âm nhạc đáng để tôi nhắc đến thì đó là tôi đã không còn là một thiếu nữ trinh trắng nữa. Tôi đã trở thành đàn bà. Đối với tôi, nó không được che phủ bởi một cuộc tình lãng mạn như ta vẫn thường thấy mà trần trụi, thô thiển và dung tục, khiến cho mỗi lần nghĩ lại tôi không khỏi rùng mình.
Hôm đó, trời bão tuyết mặc dù lúc trưa trời vẫn trong trẻo. Mấy con chó của Anjela nằm phủ phục trước cánh cửa kính cao, rộng, thông ra ban-công. Những chiếc mũi ươn ướt, nóng ấm của chúng hít hít vào mặt kính phủ lớp băng tuyết như những cánh hoa và làm tan băng thành những lỗ tròn tròn, cái thấp cái cao. Những ánh mắt hấp háy của chúng ngắm nhìn những bông tuyết trắng bay vèo vèo qua những ô cửa sổ tròn con con đó kèm theo những tiếng rít của gió, lúc to lúc nhỏ.
Cánh cửa phòng bật mở. Ông Kovalenko ló đầu vào. Có lẽ ông đang đọc sách hay tài liệu gì đó, trên sống mũi vẫn còn đeo chiếc kính gọng trắng tinh. “Ông đeo kính râm có lẽ hợp hơn”, không hiểu sao trong đầu tôi lại nảy ra ý nghĩ đó khi quay lại nhìn.
- Chú sẽ đưa cháu về tận nhà, nếu cháu không muốn bị đóng băng ở ngoài đường.
Đó chính là điều mà tôi vẫn lo sợ. Chính vì nỗi sợ đó mà tôi chưa bao giờ mời Anjela đến nhà mình chơi, mặc dù chúng tôi đã khá thân nhau. Tôi viện đủ các lý do để che giấu như che giấu một khuyết tật đáng xấu hổ trên cơ thể của chính mình. Đó là nỗi sợ những con người thuộc thế giới này nhìn thấy sự nghèo nàn đến thảm hại của cái nơi mà tôi đang sống. Nếu nói không quá lời, nó còn kém xa nơi chứa những dụng cụ làm vườn của gia đình này. Tôi nhớ đến cánh cửa ọp ẹp của ngôi nhà, những bậc thang sụt lở và ẩm thấp dẫn vào hai căn buồng nhỏ bé. Một buồng vừa làm nhà bếp, phòng ăn và một buồng để ngủ. Nhà vệ sinh ở ngoài sân, mà vào thời tiết này chắc tuyết đã chất thành đống cao xung quanh. Tôi cảm thấy khuôn mặt mình nóng bừng vì xấu hổ vì chưa nghĩ ra kế thoái thác.
- Đúng đấy! - Anjela nằm ườn ra chiếc ghế xa-lông bọc da đen ngay sát cạnh chiếc lò sưởi kiểu Hy Lạp đang cháy đỏ, đầu gối lên một con gấu nhồi bông to tướng. - Mình hôm nay nhức đầu quá, chẳng muốn học hành gì cả, nghỉ sớm thôi.
- Cháu tự đi về được mà - tôi cố chống chế, trong đầu mường tượng ra thái độ của ông Kovalenko sẽ thay đổi ra sao khi đến nhà tôi. Tôi đã một lần tình cờ nghe lỏm được ông nói với bà vợ vừa già vừa xấu của ông ở trong bếp sau khi trở về từ một chuyến viếng thăm nhà tế bần của thành phố: “Tôi chắc không ăn được cơm mất vì buồn nôn, cũng chỉ vì cái ghế ông nghị tôi mới phải nhắm mắt nhắm mũi ôm hôn cái bà già hôi hám đó cho bọn phóng viên nó chụp ảnh, ghi hình”.
Đứng trên bậc thềm nhà, tôi một tay giữ hộp đàn, một tay giữ chặt cổ áo vì gió thổi lạnh cả người. Những bông tuyết quất vào mặt buốt như kim châm. Bầu trời tối sẫm lại. Mấy ngọn đèn ở ngoài cổng trở nên leo lét, lúc ẩn lúc hiện trong vòng xoáy của tuyết và gió. Ngay lúc đó, từ phía nhà xe có tiếng động cơ rồ lên và hai ngọn đèn pha màu vàng nhạt dài loằng ngoằng trong khu sân rộng, hắt bóng những cây thông phủ đầy tuyết lên bức tường hàng rào đối diện. Tôi chưa kịp bước xuống mấy bậc thang trơn nhãy thì chiếc xe đã xịch đỗ ngay sát bên cạnh. Cửa bật mở. Tôi chẳng biết nói gì hơn là im lặng ngồi vào xe, ngay bên cạnh người lái. Ông Kovalenko phủi đám tuyết bám trên vai, trên mũ tôi và bảo tôi thắt dây an toàn lại. Tôi làm theo như một cái máy và trong đầu đang tìm cái nơi mà tôi sẽ yêu cầu ông đỗ xe ở đó để tôi tự đi bộ vào nhà mình. Chiếc xe chậm rãi rẽ ra con đường lớn, mặt kính trước đầy các vết bùn đất và tuyết khiến ông phải mở thanh gạt. Một lát sau, tôi cũng cảm thấy không đến mức phải lo lắng đến như vậy. Trong suốt thời gian tôi giúp con ông học đàn, ông luôn tỏ ra trìu mến và ân cần đối với tôi. Đêm đầu tiên sau khi chôn cất mẹ Vera, ông đã bảo tôi ngủ lại với Anjela. Cả gia đình ông đối với tôi như con cái trong nhà, song về phía tôi vẫn không thoát khỏi mặc cảm về vị trí xã hội và nguồn gốc xuất thân của mình. Có lẽ, người luôn canh chừng các chuẩn mực và ranh giới giữa tôi và gia đình ông là vợ ông. Bằng những ánh mắt, cử chỉ và những câu chuyện bóng gió, bà ta như muốn bảo rằng: cô và chúng tôi là hai thế giới khác nhau. Tôi cảm thấy ông Kovalenko rất sợ bà vợ già của mình. Điều này ảnh hưởng đến cô con gái, đi đâu, làm gì chỉ cần hỏi xin phép bà mẹ. “Mẹ bảo thế, mẹ đã cho phép, mẹ không đồng y.” là những câu nói cửa miệng của hai bố con. Lúc đó, tôi chưa hiểu được nguyên nhân sâu xa của cung cách đối xử như vậy, nhưng sau này, chẳng phải ai khác mà chính ông Kovalenko đã thổ lộ hết với tôi, chẳng khác nào xưng tội trước Chúa.
- Cho cháu xuống chỗ này, từ đây cháu tự đi bộ vào được mà.
Chiếc xe phanh két lại sát vỉa hè. Tôi cảm ơn và đẩy cửa bước ra.
Con ngõ nhỏ bị tuyết phủ trắng xóa khiến trời tối mà vẫn sáng nhờ nhờ. Một chiếc xe ngựa thồ ì ạch đi ngược trở lại. Đi được mấy bước, tôi cắm đầu cắm cổ chạy vì những ngọn gió buốt căm căm như kim châm vào mặt. Đến trước cổng nhà, tôi để hộp đàn dựa vào cánh cửa và loay hoay tra chìa khóa vào ổ. Có thể ổ khóa bị gỉ hơn nữa lại bị băng đóng nên mãi tôi vẫn chưa mở được. Hai tay đã bắt đầu lạnh cóng, nhưng lưng lại nóng toát mồ hôi.
- Để chú giúp một tay cho nào!
Tôi giật bắn mình quay đầu lại thì ông Kovalenko đã bước đến ngay sát sau lưng.
- Chú... chú chưa về ạ? - tôi lí nhí hỏi, mặt nóng bừng vì đột ngột rơi vào một tình huống mình không hề lường trước.
- Vị khách không mời còn tệ hơn cả thằng giặc Tarta.
Vừa nói, ông vừa tự tiện cầm lấy chiếc chìa khóa trong tay tôi và tra vào ổ. Tất nhiên là cửa mở ra ngay và ông nhấc hộp đàn lên:
- Chú chờ ở cháu một lời mời - ông nói và nhìn thẳng vào mắt tôi. Chẳng phải khó khăn lắm mới nhận ra điều gì ẩn chứa trong cái nhìn của ông. Tôi cảm thấy ớn lạnh sống lưng và hai chân như không còn tự chủ được nữa.
Cả hai cứ đứng im lặng như vậy có đến một phút. Cuối cùng, khó khăn lắm tôi mới thốt ra được mấy câu ấp úng, phần vì lạnh phần vị sợ.
- Chú vào đi!
Cánh cửa sau lưng chúng tôi đóng sập lại. Tôi thấy sởn gai ốc vì tiếng rít của ổ khóa bị gỉ. Xung quanh yên ắng, thấp thoáng xa xa có ánh đèn hắt ra từ cửa sổ của nhà hàng xóm. Đâu đó vọng lại tiếng nhạc rậm rịch. Một tiếng chó sủa vu vơ chới với trong tiếng gió rít u u trên ống thông hơi của lò sưởi.
Khi chỉ có hai người trong nhà, một đàn ông và một cô gái thì mọi rào cản xã hội không còn ý nghĩa gì nữa. Mọi ranh giới mà con người tự nghĩ ra để suy tôn bản thân như chức vụ, quyền lực, tiền tài... đều rơi tuột xuống. Đứng trước mặt tôi, ông Kavalenko trở nên luống cuống, nói năng ấp úng. Ông giúp tôi cởi chiếc áo khoác lông nặng trịch và hôn lên bàn tay còn lạnh cóng của tôi. Ông quỳ xuống dưới sàn nhà để giúp tôi tháo đôi giày đông và hôn lên bàn chân tôi. Có lẽ ông cũng chẳng để ý tới sự tồi tàn của đồ đạc trong ngôi nhà như tôi vẫn lo ngại.
- Hôm nay, tôi xin nói thẳng lòng mình với em, bởi vì chắc tôi không chờ đợi lâu hơn được nữa.
Thực sự là tôi bất ngờ trước giọng điệu và cách bày tỏ tỉnh cảm của ông. Vẻ đạo mạo hơi kênh kiệu biến đâu mất, thay vào đó là sự quỵ lụy và thành khẩn.
- Tôi thực sự yêu em khi nhìn thấy em lần đầu tiên tại buổi biểu diễn tại trường, em có nhớ không? Việc học đàn đó chỉ là cái cớ mà tôi nghĩ ra để được gần em. Tôi biết hoàn cảnh của em vì đó cũng chính là hoàn cảnh của tôi hơn hai chục năm trước đây. Một thằng nhà quê lên thành phố học, không người thân, không bạn bè. Chắc em cũng dễ dàng nhận ra một điều là tôi và vợ tôi sống không hạnh phúc. Tôi có thể che giấu điều này trước bàn dân thiên hạ, nhưng với em, tôi không có gì để giấu giếm cả. Bà ấy coi tôi chẳng khác gì một đồ vật trong nhà. Phải, nếu có khác thì đồ vật này buổi sáng cung cúc đi làm còn buổi chiều lại trở về đúng chỗ của nó. Đồ vật này phải làm theo những chỉ thị của bà ta: cần chơi thân với ai, cần phải đến thăm ai, biếu xén cái gì vào những dịp sinh nhật, lễ tết. Bà ta chẳng khác nào một mụ giô-kề ra roi quất vào lưng tôi trong cuộc chạy đua về địa vị và lợi nhuận gửi nhà băng nước ngoài.
Tôi bất chợt cảm thấy đáng thương con người đang quỳ trước mặt mình này. Tôi nhìn những giọt mồ hôi lấm tấm trên cái trán hói sớm của ông và bất giác đưa vạt áo lên lau. Ông xúc động quá bật khóc.
- Em có biết rằng tôi rất cô đơn không? Có vợ, có con, có địa vị tiền bạc, nhưng vẫn cô đơn vì với ai cũng phải mưu mẹo, đối phó. Người ta xúm lấy tôi, nịnh bợ tôi, tâng bốc tôi trên báo chí, truyền hình cũng chỉ vì mục đích cá nhân của mình, không vì tiền thì cũng vì địa vị. Tôi khát khao một tình cảm chân thật, một người bạn tri kỷ, một tình yêu để tôi có thể vì nó mà sống tiếp những năm tháng của cuộc đời mình. Tachiana, em có biết anh yêu em đến chừng nào không? Anh đã trở thành một cậu học trò si tình từ bao giờ mà cũng không hay. Mỗi khi em đến dạy đàn cho con gái anh, anh đều tìm cách này hay cách khác để được đến gần em, lúc thì mang nước vào thay cho bà phục vụ, khi lại sửa một cái gì đó vu vơ trong phòng thư viện của gia đình, nếu không thì anh cũng ngồi lì ở phòng bên cạnh, lắng nghe từng tiếng động vọng sang: tiếng em cười, tiếng em kể chuyện tiếu lâm, tiếng đàn của em. Nếu vợ anh có tình cờ bước vào thì anh lại giả vờ đang bận túi bụi với đống tài liệu đem từ cơ quan về, hay chúi mũi vào xem tờ báo cũ. Khi em về rồi, căn phòng vẫn còn vương vấn mùi nước hoa giản dị nhưng quyến rũ của em. Anh phải khó khăn lắm mới bước ra khỏi căn buồng đó được một khi chưa hít căng lồng ngực của mình hương thơm của em.
Tôi bảo ông đứng lên và đi vào bếp đặt ấm nước pha chè. Chiếc ấm xamôva sôi lên sùng sục. Hơi nước phụt ra phía trên nắp kêu lanh canh. Hai chúng tôi im lặng một lúc lâu.
- Anh ao ước được ngồi mãi như thế này, trong căn nhà này! - ông khẽ thốt lên.
Tôi đặt cốc nước chè lên trước mặt ông. Ông đột ngột chộp lấy cánh tay tôi và hôn tới tấp từ ngón út lên đến bờ vai. Tôi cảm thấy đầu óc chếnh choáng, bủn rủn chân tay, chỉ chống lại một cách yếu ớt. Ông Kovalenko ôm ghì lấy tôi, mạnh đến mức xô lệch cả bàn, cốc nước chè văng xuống dưới đất vỡ tan. Ông hôn như điên cuồng lên cổ lên mặt tôi.
- Anh khao khát em! - ông nói nhỏ qua hơi thở gấp và bế thốc tôi đặt lên chiếc đi-văng cũ kỹ để cạnh bếp lò. Tôi như người ngủ mơ. Tôi láng máng hiểu rằng cái điều mà mình vẫn hay nghĩ tới, vẫn tưởng tượng, sắp xảy ra. Tôi chỉ thấy nuối tiếc cho lần quan hệ đầu tiên này lại không phải là với người bạn trai mà tôi rất có cảm tình. Chuyện đó xảy ra vào hồi mùa hè. Tôi cùng các bạn trong lớp đi nghỉ hè ở Biển Đen. Ngay từ khi ngồi trên ô tô đi từ Simferopol ra Ianta, hai chúng tôi đã liếc mắt đưa tình đắm đuối. Cậu ấy tên là Roman, con trai của bà phụ trách đoàn học sinh đi nghỉ. Cậu là vận động viên môn trượt băng nghệ thuật. Đôi mắt cậu ấy xanh biếc như nước biển, tóc màu vàng óng ả để xõa xuống hai vai. Tôi chủ động làm quen bằng cách nhờ cậu mang hộp đàn từ ô tô vào khu nhà nghỉ. Tối hôm ấy, chúng tôi đã nắm tay nhau đi dạo dọc bãi biển. Những con sóng sủi bọt xóa nhòa đi dấu chân trần của chúng tôi trên cát. Nụ hôn đầu tiên không cưỡng lại được đượm hương vị mặn nồng của gió biển. Roman rất thích hôn lên chiếc bớt màu hồng hồng trên cổ tôi. Hai cơ thể trẻ trung đầy sức sống nóng ran lên trong những cái vuốt ve nồng nàn. Những ngày phơi nắng, tắm biển tiếp theo lại càng làm cho chúng tôi trở nên gắn bó hơn về thể xác và tâm hồn. Ở mọi nơi, mọi lúc, chúng tôi đều tìm cách gần gũi và đụng chạm nhau. Trong lúc xếp hàng lấy đồ ăn tại căn-tin, hai tay chúng tôi tìm lấy nhau trong cái xiết chặt đến nóng ran. Tại rạp chiếu phim, chúng tôi ngồi hàng ghế cuối cùng để được tự do hôn nhau, chu du đến những miền đất lạ đầy hấp dẫn. Khi rạp chiếu bật đèn sáng, hai chúng tôi bước ra ngoài và cùng cười phá lên vì chẳng ai nhớ nội dung bộ phim nói gì. Kỳ nghỉ hè tưởng như quá ngắn ngủi. Mới loáng một cái mà đã sắp đến ngày phải trở về thành phố K. bụi bặm, nhốn nháo. Chiều hôm đó, mọi người ra biển hết. Hai chúng tôi rủ nhau ở lại trong căn phòng trên gác năm có cửa sổ trông ra biển. Ánh nắng chiếu cả ngày khiến căn phòng ngột ngạt, lại còn bị đám ruồi quấy nhiễu vì trong phòng vẫn còn nồng nặc mùi dưa bở. Chiếc giường cá nhân quá nhỏ khiến chúng tôi bị ngã lăn xuống sàn trong một nụ hôn say đắm. Tôi trải chiếc khăn tắm rộng có hình những cánh buồm đỏ thắm lên sàn nhà và nằm xuống để cho Roman cởi từng chiếc cúc trên chiếc váy in những bông hoa cúc màu tim tím. Cởi đến đâu, cậu lại đặt môi hôn đến đó. Chiếc cúc cuối cùng bật ra thì cánh cửa phòng chợt mở tung. Đứng trong khung cửa là bà mẹ của Roman với nét mặt mà tôi không bao giờ quên được. Sự hiện diện của bà đặt dấu chấm hết cho mối tình của hai chúng tôi.
Chiều hôm sau, Roman bị chết đuối ngoài biển và không tìm thấy xác.
Trước lúc lên xe trở về, tôi chợt như nghe thấy có tiếng ai gọi mình. Tôi lao ra bờ biển, vừa chạy vừa gọi tên người bạn tình xấu số, nước mắt tôi nhòa đi, giọng khản đặc lại. Tôi ngã lăn xuống mép nước trong một cơn thổn thức không kìm lại được. Sóng biển chồm lên người tôi. Hòa với tiếng sóng, tôi lại nghe thấy tiếng ai đó gọi mình, lần này đúng là giọng Roman. Tôi như nhìn thấy thân hình cân đối hoàn toàn khỏa thân của chàng đi từ ngoài biển vào, mái tóc vàng xõa ra bay trong ánh nắng chói chang của mặt trời tháng bảy đang lên trên biển.
Tôi gào rất to và giật mình choàng tỉnh.
Ông Kovalenko đang ngồi bên cạnh, thong thả cài lại cúc áo. Ông húng hắng ho mấy cái như định nói điều gì đó rồi lại thôi. Tôi cảm thấy người trống rỗng, dửng dưng, không vui mà cũng chẳng buồn. Điều mà tôi vẫn mường tượng là ghê gớm lại diễn ra một cách bất ngờ và vô vị. Tôi loáng thoáng nghe thấy ông nói về việc căn nhà này sẽ được sửa sang lại cho đàng hoàng, về những chuyến du lịch Ai Cập hay Đảo Síp... Cho đến lúc ông bước ra khỏi cửa nhà, tôi vẫn bị vương vấn bởi hình ảnh người bạn trai, người mà tôi sẵn sàng trao thân không một chút do dự. Tôi uể oải ngồi xuống chiếc đi-văng bên cạnh lò sưởi. Một cảm giác buồn bã, bất hạnh xâm chiếm tâm hồn khi tôi nhìn xuống những mảnh vỡ của chiếc cốc vẫn lăn lóc trên nền nhà dưới gầm bàn. Bất giác, tôi gục mặt lên thành ghế và bật khóc tức tưởi. Tôi khóc rất lâu và có lẽ cũng rất to. Những thanh củi trong lò đã phủ một lớp tro tàn, thỉnh thoảng lại hồng rực lên mỗi khi có gió lạnh rít lên từng cơn trên mái nhà. Cuối cùng, tôi thiếp đi trong một giấc ngủ sâu không chút mộng mị.
Buổi dạy đàn hôm sau, tôi cáo ốm ở nhà. Tôi có cảm giác như người phạm tội và quả là khó mà nhìn thẳng vào mắt con gái cũng như vợ ông ấy.Tôi nghỉ gần một tháng và trốn tránh mọi cuộc gặp gỡ với ông. Ông ấy giống như một cậu học sinh, viết những lá thư dài chẳng đâu vào đâu nhét vào khe cửa nhà tôi. Trong một bức thư cuối, ông dọa nếu tôi không đến ông ấy sẽ quyên sinh. Dòng cuối bức thư ông viết: “Nếu em có căm thù anh, phỉ nhổ anh vì hành vi đốn mạt của mình thì em cũng thương lấy đứa con gái của anh. Chẳng ngày nào là nó không nhắc tới em, chẳng ngày nào là nó không giục anh tới nhà em hỏi xem tại sao lại không đến nữa. Anh phải nói dối rằng em đang lo thu xếp công việc gia đình đằng nhà bà mẹ nuôi. Một lần nữa, anh van em đừng nhẫn tâm đến như vậy! Ký tên: Người đầy tớ trung thành của em”.
Sau buổi học hôm thứ hai, vừa bước chân ra khỏi trường, tôi đã nhìn thấy chiếc xe màu mận chín của ông đậu ở phía bên kia hè đường. Tôi định quay gót bước sang một hướng khác thì ông đã nhanh nhẹn bước ra khỏi xe và tiến lại phía tôi. Tôi không biết làm gì hơn đành đứng im, tay vân vê chiếc quai da của hộp đàn.
- Em vẫn giận tôi sao? - ông Kovalenko khẽ nói.
- Chẳng có gì phải giận cả.
- Nếu không giận thì chúng ta cùng lên xe về nhà. Anjela đang sốt ruột chờ ở nhà.
Tôi rơi vào tình thế không biết tiến thoái ra làm sao và cuối cùng để mặc cho cánh tay ông dắt đến chỗ xe đậu. Trên đường đi, hai chúng tôi không ai nói với ai một câu nào. Tôi ngồi ở ghế sau. Thỉnh thoảng ông lại lầu bầu mấy câu nguyền rủa cái thời tiết tháng ba tuyết tan bẩn thỉu, đường sá lầy lội. Có một lần, ánh mắt chúng tôi gặp nhau trong chiếc gương chiếu hậu. Tôi vội cúi mặt xuống, còn ông khẽ mỉm cười. Ông với tay bật chiếc cát-xét. Tôi nhận ngay ra tiếng đàn của mình trong cuộc thi tại trường hồi nào. Bất chợt, mọi sự vật xung quanh như không còn tồn tại, chỉ có những âm thanh. Trong một khoảnh khắc, bằng tất cả mọi giác quan, tôi cảm nhận được ngay những khiếm khuyết trong tiếng đàn của mình, chẳng khác nào một người đầu bếp lành nghề chỉ cần ngửi qua mùi cũng biết trong món đó còn thiếu gia vị gì. Có một điều không giải thích được, là tại sao chính vào thời điểm này tôi mới phát hiện ra điều đó? Tôi chìm đắm trong thế giới âm thanh mà không hề để ý rằng xe đã phanh khựng lại trước cánh cổng quen thuộc. Ba chú chó lao ra khỏi cửa, chồm lên người tôi, đuôi ngoáy tít mừng rỡ. Tiếp sau đó là Anjela, trên người chỉ có độc chiếc váy ngủ, đầu tóc rối bù và trên tay còn cầm một cuốn sách đọc dở. Cô gái ôm chầm lấy tôi và khóc như một đứa trẻ. Hai chúng tôi cứ ôm nhau như thế mà đi vào trong nhà. Trước khi bước vào cửa, tôi kịp nhìn thấy cánh cửa trên tầng hai khẽ đóng lại. Bà Zinaiđa, vợ ông Ivan, chắc vừa hé cửa sổ nhìn xuống. Bà ấy không bao giờ biểu lộ tình cảm của mình ra mặt. Ở cuối mảnh vườn phía trước, bà già lao công cũng ngoảnh lại tươi cười vẫy tay chào tôi, chiếc vòi tưới bằng cao su màu đỏ trong tay vẽ lên trong không trung một đường vòng cung nước lấp lánh. Mọi vật trong ngôi nhà này như chào đón sự trở lại của tôi, nhưng không hiểu sao tôi vẫn có một cảm giác mình là người phạm lỗi. Mà lỗi gì đây? Tôi thực chưa có một câu trả lời thỏa đáng.
Theo chủ quan của tôi, từ ngày hôm đó, ông Kovalenko đã có những thay đổi không phải khó khăn lắm mới nhận ra. Mái tóc lốm đốm bạc đã biến mất sau làn thuốc nhuộm. Ông rất năng đi tập ten-nít và bơi lội. Ông quan tâm hơi thái quá tới các băng nhạc trẻ đang nổi tiếng. Ông có vẻ như chiều bà vợ khó tính hơn. Trên đường công danh, ông cũng được cất nhắc rất nhanh vì sự tận tụy với công việc, nhưng chắc chắn không thể thiếu những động thái ngoại giao tinh vi và hiệu quả của bà Zinaiđa.
Sau một lần đi nghỉ hè về, tôi không nhận ra được căn nhà tồi tàn trước đây của mình. Mái cũ đã được lợp lại, các cửa lớn cửa sổ được thay mới hoàn toàn. Cánh cổng vào cũng mới với tấm biển màu xanh lá cây trông mát mắt: Phố Lermontov, số nhà 173A. Tôi bước vào trong nhà, không tin ở mắt mình nữa, chẳng khác gì câu chuyện cổ tích: các đồ gỗ cũ kỹ từ thời sau đại chiến thế giới thứ hai biến đâu mất mà thay vào đó là bộ tủ tường sáng choang, bộ bàn ghế cũng không kém phần sang trọng. Một chiếc đàn piano mới để trong phòng ngủ khiến tôi mừng quá nhảy cẫng lên và mở ngay nắp đàn dạo một hợp âm làm rung động cả căn phòng bé nhỏ. Từ trong hộp đàn, một chiếc bưu thiếp màu xanh lơ rơi xuống dưới đất. Tôi cầm lên đọc và thực sự cảm động đến ứa nước mắt: “Tặng em nhân ngày sinh nhật lần thứ 16. Một người luôn luôn ngưỡng mộ sắc đẹp cũng như tài năng của em. Kovalenko. V. A”. Tôi thấy mình cũng hơi thất trách, không biết được ngày sinh của ông ấy. Một giọng nói từ bên trong vang lên khiến tôi cũng giật mình: “Nhưng mình có yêu ông ấy đâu”. Có lẽ, chiếm đoạt thân thể một người con gái không có gì khó, nhưng chiếm đoạt được tâm hồn cô ta mới là một việc không phải người đàn ông nào cũng làm được, kể cả người đó có quyền lực và giàu có.
Song, cái gì cũng có điểm kết thúc của nó, chỉ khác nhau là kết thúc có hậu hay không mà thôi. Về phần mình, tôi lại thấy như vậy là tốt hơn. Mặc dù tôi bước chân ra khỏi nhà ấy gần như bị sỉ nhục, nhưng chính từ những nguyên vật liệu ô uế đó, tôi đã tôi luyện nên một ý chí phi thường để giành được chiến thắng trong kỳ thi violon toàn quốc hai năm sau. Có lẽ, dân gian đã nói rất đúng: “Bất hạnh là một ông thầy thông minh nhất”, chí ít cũng là trong trường hợp của riêng tôi. Mọi chuyện bắt đầu từ một mảnh giấy tôi viết cho ông bị rơi vào tay bà Zinaiđa. Tình cờ bà ta tóm được mảnh giấy đó trong túi áo ngực của ông trong một lần soát túi thường kỳ. Ông Viktor có lần vô tình cho biết vợ ông có cái thói quen là hay lục soát cặp và túi áo quần của chồng. Mỗi người có những sở thích quái dị khác nhau. Nhưng ai cũng nghĩ rằng chỉ có sở thích của mình là chính đáng. Tôi vừa giận vừa thương cái người đàn ông đang ấp a ấp úng đứng trước mặt, trong khu vườn đằng sau trường. Tôi không hình dung ra nổi lúc ông hò hét hay quát tháo cấp dưới ra sao nhưng ở đây ông trông thật tội nghiệp. Mấy sợi tóc phía trước trán bết mồ hôi làm phai thuốc nhuộm thành những vệt nâu thẫm lem nha lem nhem.
- Anh quả là sơ suất, con bò cái ấy nó tru tréo lên, gạt đổ cả một chồng bát đĩa quí trong bếp. Anh bảo đây hoàn toàn là chuyện công việc cả thôi, nhưng mụ ta túm riết lấy một câu trong đó: “Anh nên giúp bà hàng xóm nhà em nhé!”. Mụ lý luận, nếu không có tình cảm gì thì chẳng bao giờ em lại lại dám nhờ anh với cái giọng như thế, với một người tuổi đáng bậc cha chú, lại có quyền thế trong xã hội. Mụ ấy thì quá thừa óc thông minh trong những chuyện tương tự.
- Theo lịch, ngày mai em đến tập đàn cho Anjela.
- Em chưa nên đến vội, để một thời gian cho nguôi ngoai đã. Anh biết tính mụ ấy rồi, chỉ sợ mất tiền thôi.
- Em mà không đến thì cũng không ổn, như thế lại càng chứng tỏ rằng có chuyện.
- Anh sẽ bảo Anjela đến nhà em, thế là hay nhất.
“Hay nhất” đó chỉ là đối với ông Kovalenko thôi, còn đối với tôi đây lại là buổi dạy đàn cuối cùng và cũng là một ngày mà có lẽ tôi không bao giờ quên. Hai chúng tôi tập đàn được khoảng một tiếng đồng hồ thì cảm thấy đói. Tôi chạy ù ra cửa hàng thực phẩm ở đầu phố mua trứng, pho-mát và bánh mì. Qua quầy bán báo, tôi dừng lại tiêu nốt số tiền lẻ để mua tạp chí “Moda” mà mình yêu thích. Bà bán báo cứ dứt khoát muốn nhận tôi làm con dâu và nói rằng nhất định hôm nào sẽ đưa con trai bà tới làm quen. Tôi chỉ cười và nói rằng còn phải học đã, còn khối thời gian để nghĩ tới chuyện đó. Bà gấp đôi tờ báo lại và còn dúi thêm cho tôi một thanh kẹo sô-cô-la. Ra khỏi quầy báo, tôi rảo bước thật nhanh trên con đường nhỏ gồ ghề vì sợ Anjela ở nhà một mình buồn. Vừa rẽ vào khúc ngoặt, tôi chợt trông thấy một chiếc xe Peujo màu xanh đỗ cạnh nhà mình. Một dự cảm không hay khiến bước chân tôi đi chậm lại. Cửa xe đóng kín mít nên tôi không nhìn thấy ai bên trong. Bước vào sân, tôi đã nghe thấy tiếng bà Zinaiđa đang quát tháo con gái. Tôi hiểu ngay ra mọi vấn đề , trống ngực đập thình thịch. Cánh cửa buồng đột ngột bật mở khi tôi vừa đưa tay lên định nắm chốt. Bà Zinaiđa hai tay đứng chống nạnh nhìn ra. Hai hàng lông mày kẻ chì đen nhánh như dính lại thành một. Đôi môi tô son đỏ mím lại một cách độc ác và để bật ra mấy từ vừa cay nghiến vừa mỉa mai:
- Con Lolita đã dẫn xác về kia rồi!
Khi đó, tôi chưa biết tại sao bà lại gọi tôi là “Lolita”. Sau này, tôi mới hiểu đó là nữ nhân vật nhỏ tuổi trong tiểu thuyết nổi tiếng cùng tên của nhà văn Nga lưu vong Vladimir Nabokov. Cô bé đã có một cuộc tình say đắm với một nhà văn lớn tuổi, người ở trọ trong ngôi nhà của gia đình cô. Tiểu thuyết được làm thành phim và tôi đã xem đi xem lại không biết chán. Có lẽ, trong mỗi người đàn bà chúng ta đều đã từng ẩn chứa một “Lolita” chăng?
Tôi không muốn nhắc lại những lời nói thô bỉ, tục tằn của một người đàn bà thuộc tầng lớp quan chức, tinh hoa của một thành phố, lại có tiếng là văn hóa cao. Nếu có viết ra đây thì nó cũng chỉ làm bẩn giấy, tốn mực mà thôi. Trong suốt gần nửa tiếng đồng hồ bà chửi bới sỉ vả, Tôi chỉ đứng im như chôn chân xuống bậc thềm nhà mình. “Lời nói đọi máu”, trước khi đóng sập cửa lại, bà ném vào mặt tôi một câu nói mà tôi đến chết cũng không quên được: “Con ranh hạ đẳng kia, chỗ của mày trong xã hội này là đứng ngoài vỉa hè đón khách, rõ chưa?” Tôi không biết sắc mặt tôi ra sao, nhưng sau khi bà ta kéo con gái ra khỏi nhà rồi, tôi chợt thấy vị mặn trong miệng. Thì ra, vì căm giận mà tôi đã cắn rách toạc môi mình lúc nào không hay.
Năm năm sau, cũng chính tại bậc cầu thang này, bà ta đã phải lạy lục mời mọc tôi đến chơi nhà bà. Bà ta cắn rơm cắn cỏ xin lỗi tôi và nói rằng trái tim nông nổi ghen tuông của đàn bà thì làm gì còn có trí khôn nữa. Nhưng tôi thì nhìn xuyên thấu tâm can bà: bà muốn qua tôi để tiếp cận một con người có quyền lực tại Kiev.
Cũng chính cái năm đáng ghi nhớ đó, tôi thi và trúng tuyển vào Nhạc viện Kiev. Tôi cho một gia đình người Việt Nam làm ăn buôn bán tại trung tâm thương mại Barbasova thuê lại ngôi nhà. Bằng số tiền cho thuê đó, tôi tiếp tục tu nghiệp tại thủ đô và đoạt giải nhất trong cuộc thi violon toàn Ucraina khi đang học năm thứ ba. Trong thời gian này, tôi đã cự tuyệt mọi lời van xin, nài nỉ gặp gỡ của ông Kovalenko. Ông ấy gọi điện, viết thư và bộc bạch rằng: “Mọi người cứ nghĩ anh lên thủ đô công tác, nhưng đấy chỉ là việc phụ, việc chính là muốn được gặp em. Đừng để người đàn ông bất hạnh này phải đau khổ và mất hết niềm vui sống ở trên đời này”. Tôi không muốn gặp ông bởi vì tôi không thể quên được cái hôm bà vợ ông sỉ nhục tôi. Trái tim tôi khao khát được trả thù. Tôi đã làm được việc đó bằng những thành công vang dội trên con đường âm nhạc. Cuối năm thứ năm, tôi lại đoạt giải nhất trong kỳ thi violon quốc tế tổ chức tại Praha. Tổng thống Ucraina đã đích thân trao tặng tôi danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân Ucraina và huy chương vì sự nghiệp phát triển Nghệ thuật. Tôi là Nghệ sĩ Nhân dân trẻ nhất và duy nhất không phải người gốc Ucraina. Tôi được chào đón ở khắp mọi nơi. Mọi cánh cửa của các gia đình giàu sang, quyền thế của Kiev luôn luôn mở rộng đối với tôi. Chính trong những giây phút mà mọi người cho là vinh quang đó, tôi lại cảm thấy chán nản, thất vọng và cô đơn. Tôi trốn tránh những lời mời mọc, những bữa tiệc chiêu đãi triền miên bằng các chuyến đi biểu diễn trong và ngoài nước. Tôi kiếm được nhiều tiền, rất nhiều tiền bằng sức lao động và tài năng của mình. Nhưng không hiểu sao, tôi vẫn không cảm thấy mình là con người hạnh phúc. Tôi chưa tìm được tình yêu đích thực, chưa tìm được người đàn ông lý tưởng của cuộc đời mình. Cho đến lúc này, ngồi viết những dòng chữ này, tôi vẫn ước ao và sẵn sàng đánh đổi tất cả danh vọng để có được một người đàn ông mà mình có thể đặt mọi niềm tin. Một người đàn ông duy nhất của đời mình. Để một người đàn bà hạnh phúc, chắc cũng chỉ cần có vậy!”.
23
Tôi ngừng lại, như một vận động viên bơi lội trồi lên khỏi mặt nước để lấy hơi. Lúc này, tôi mới chợt nhớ ra là mình đang ngồi ở đâu. Cảm giác về thời gian trôi qua rất lâu, nhưng khi nhìn lên chiếc đồng hồ treo tường, mới vẻn vẹn gần một tiếng đồng hồ. Xung quanh vẫn im lặng. Trong tâm hồn tôi xáo trộn nhiều cảm xúc khác nhau. Nói đúng hơn là cảm giác ghen tỵ, nuối tiếc một cái gì đấy rất xa vời, cảm giác đau mà chưa xác định được vị trí đau ở đâu. Tôi uống nốt cốc nước chè đã nguội ngắt và cảm thấy khé trong cổ họng. Không hiểu sao, tôi bỗng liên tưởng đến một lần đi xem múa ba-lê vở “Hồ Thiên Nga” tại nhà hát lớn ở Matxcơva. Thật không may, chỗ ngồi của tôi lại đúng vào hàng ghế đầu tiên, sát ngay sân khấu. Tôi phải nhìn thấy cả mồ hôi mồ kê nhễ nhại trên mặt trên cổ các diễn viên, nhìn thấy rõ cả lớp phấn son tô dày, đậm nét bị mồ hôi và ánh đèn chiếu sáng hun nóng làm cho lem nhem, nhìn thấy cả lớp bụi mờ mờ trên sàn sân khấu... không hiểu sao, ấn tượng về vở ba-lê xem hôm đó giảm hẳn, mất đi những nét thanh cao hoàn mỹ của vẻ đẹp hình thể, mất đi vẻ siêu thoát của bộ môn nghệ thuật cao quí này. Nó kéo ba-lê xuống gần với một môn thể thao trong rạp xiếc. Có lẽ, tốt nhất là nên chiêm ngưỡng từ xa con thiên nga trắng đang sải cánh trên mặt hồ hơn là tiếp cận nó trong nhà bếp.
Tôi lật tiếp những trang cuối của tập hồ sơ. Đó là bản thuật lại cuộc đối thoại, hay gọi theo đúng ngôn ngữ pháp luật là bản khai nhân chứng, mà một bên là thẩm phán viên và một bên là nghệ sĩ Tachiana. Bản này được đánh máy cẩn thận, đôi chỗ bị gạch đít bằng bút bi đỏ, chắc là vấn đề quan trọng mà ông Fadman muốn lưu ý. Không hiểu sao, cái hào hứng muốn đọc biến đâu mất. Nhưng tôi vẫn lơ đãng lật giở và đọc lướt qua.
Thẩm phán viên: Không kể buổi tối hôm đó, chị gặp ông Kovalenko lần cuối cùng khi nào? Ở đâu?
Nữ nghệ sĩ: Ba tháng trước đó. Trước chuyến đi biểu diễn tại Ai Cập, tại nhà riêng của tôi.
Thẩm phán viên: Ngôi nhà này chị được cấp hay mua?
Nữ nghệ sĩ: Tôi mua bằng tiền của mình.
Thẩm phán viên: Chúng tôi sẽ kiểm tra việc này sau. Chị có thể cho biết nội dung cuộc nói chuyện hôm đó được không? Và ông ấy có bao giờ nói với chị về chuyện công việc của mình, nhất là trong thời kỳ chuẩn bị cho cuộc vận động tranh cử tổng thống vừa qua không?
Nữ nghệ sĩ: Ông ấy đến nhà tôi cùng với con gái. Tôi và con gái ông ấy chơi thân với nhau từ khi còn học phổ thông. Chuyện công việc thì không, nhưng chuyện bầu cử thì có. Ông ấy muốn tôi tham gia biểu diễn trong một chương trình ca nhạc khắp các tỉnh thành Ucraina nhằm ủng hộ cho ứng cử viên đảng Dân chủ với một khoản tiền thù lao lớn.
Thẩm phán viên: Và chị đã đồng ý?
Nữ nghệ sĩ: Trong một nước dân chủ thì quyền ủng hộ ai là do mỗi người tự quyết định. Tôi đồng ý nhưng với điều kiện chỉ tham gia ở những thành phố như: Kiev, K. và Odessa.
Thẩm phán viên: Tại sao lại như vậy?
Nữ nghệ sĩ: Vì ở những thành phố này có đông người đồng hương Việt Nam.
Thẩm phán viên: Tôi muốn chị kể rõ hơn cái đêm xảy ra vụ tự sát đó? Xin chị lưu ý thêm một điểm rằng mức độ trung thực trong lời nói của chị rất ảnh hưởng đến con đường sự nghiệp của chị sau này.
Nữ nghệ sĩ: Anh có thể nói điều đó với ai khác chứ không phải với tôi. Anh là đại diện của chính quyền mới, tôi thấy cũng nên có cách xử sự mới, nhất là với giới văn nghệ sĩ, những người nắm giữ mọi giác quan cảm xúc của cả một xã hội.
Thẩm phán viên: Xin chị đi thẳng vào câu tôi hỏi?
Nữ nghệ sĩ: Lúc đó vào khoảng gần nửa đêm, tôi bị đánh thức dậy bởi một hồi chuông điện thoại. Máy điện thoại tôi không để trong phòng ngủ mà ở phòng khách. Bởi vậy, chuông đổ đến mấy lần trong đêm hôm khuya khoắt nghe cũng kinh kinh. Tôi nhấc ống nghe lên và nhận ngay ra giọng ông Kovalenko. Ông xin lỗi tôi vì đã trót quấy rầy giấc ngủ. Tôi hỏi xem có chuyện gì mà ông ấy phải gọi đường đột vào giờ này. Ông ấy bảo ông ấy sắp đi công tác xa, muốn mời tôi ngày hôm sau sang nhà nghỉ của ông ở bên hồ Xantovka. “Tôi sẽ cho xe đến đón em” - ông nói như vậy. Tôi im lặng một lúc, đắn đo suy nghĩ không biết nên đồng ý hay không. Tôi biết ông ấy bây giờ đang thất cơ lỡ vận và nghe phong thanh đâu bên Viện Kiểm sát đã có giấy gọi lên chất vấn về việc sử dụng tiền công quỹ vào cuộc tranh cử vừa qua. “Đừng cư xử tàn nhẫn với anh như vậy” - thấy tôi im lặng lâu, ông ấy lên tiếng, giọng yếu ớt. Tôi đồng ý vì muốn được nhìn thẳng vào mắt bà Zinaiđa để thỏa lòng căm thù, để được tận mắt nhìn thấy đôi mắt bà ta phải cúi xuống trước ánh mắt của cái “con ranh hạ đẳng” này. Đàn bà là giống người nhỏ nhen, hay nhớ dai và thù vặt. Tôi không phải là một ngoại lệ. Hôm sau, tôi diện bộ đồ thật sang trọng, gam màu xanh lục, do một nhà tạo mẫu ở Milan tặng trong đợt đi biểu diễn tại Italia. Trong bộ đồ này, tôi đã xuất hiện trước khán giả của đài truyền hình BBC và nhận được một khoản thù lao quảng cáo rất cao của nhà tạo mẫu. Tôi cố tình đến muộn nửa tiếng và rất ngạc nhiên vì trong khuôn viên của khu vườn tụ tập rất đông khách, nhiều người trong số đó tôi biết mặt. Ông Kovalenko hấp tấp chạy ra tận cửa đón tôi vào. Tôi cảm nhận được những ánh mắt hâm mộ, thân thiện của các quý ông, đồng thời không để lọt qua mắt những cái đầu uốn tóc công phu của các quý bà chụm lại, thì thầm to nhỏ. Những ánh mắt sắc nhọn chà đi sát lại từ đầu đến chân tôi không bỏ sót một tiểu tiết. Tôi đoán chắc là họ đang bình phẩm bộ áo cánh tôi đang mặc trên người, đôi giày tôi đi dưới chân và kiểu tóc mà hôm nay tôi chải. Tôi thấy một quý bà quay ngoắt mặt đi khi tôi bước lại gần. Nhìn từ phía sau tôi cũng nhận ngay ra bà hiệu trưởng Học viện Âm nhạc K.. Với phụ nữ, hình như tôi bao giờ cũng là một kẻ thù đáng ghét dù chẳng làm nên tội lỗi gì. Diện mạo và tài năng của tôi gây cho mình không ít kẻ thù. Nhưng đó cũng lại là chất kích thích cần thiết đối với người nghệ sĩ.
Chuyện gì diễn ra trong cuộc vui chơi này, chắc cũng chẳng có gì đáng để nói lại. Nó cũng nhàm chán và công thức như trăm ngàn cuộc vui chơi mà giới thượng lưu thành phố vẫn bày vẽ ra để tiêu xài tiền và thời gian, để trả nợ miệng nhau, để mưu tính những vụ áp phe chính trị, và để ngồi đem chuyện của người khác ra làm đề tài cho những tiếng cười bên ly rượu. Khoảng gần mười hai giờ đêm, mọi người lục tục kéo nhau ra bãi đỗ xe để trở về thành phố. Tôi là người ra gần cuối cùng vì câu chuyện với Anjelicka mãi không dứt. Cô định ra tiễn tôi nhưng đứa con nhỏ hai tháng tuổi thức giấc và khóc mãi không chịu nín. Chúng tôi chia tay nhau ở ngay ngưỡng cửa nhà bếp. Ông Kovalenko từ trên tầng trên đi xuống, khuôn mặt tỏ ra rất xúc động. Hình như ông vừa nói chuyện điện thoại với ai đó. Bởi vì trước đó mấy phút, tôi nghe được lõm bõm mấy câu từ phía trên đưa xuống: “Chúa sẽ là người làm chứng”. Ông muốn tiễn tôi một quãng. Ông nói với người lái xe là cứ cho xe ra chỗ gần cầu đợi, hai chúng tôi vừa thong thả đi bộ vừa có câu chuyện muốn nói với nhau.
Thẩm phán viên: Từ chỗ đó ra đến cầu khoảng cách bao xa?
Nữ nghệ sĩ: Nếu tôi không nhầm thì chỉ khoảng hơn một trăm mét, nhưng chúng tôi lúc thì đi bộ lững thững, có lúc đứng lại nói chuyện.
Thẩm phán viên: Tôi muốn biết nội dung câu chuyện?
Nữ nghệ sĩ: Cũng thật bất ngờ đối với tôi. Ông ấy nắm lấy tay tôi và nói rằng: “Anh không thể ở lại mảnh đất này được nữa. Đối với anh chỉ có hai con đường để lựa chọn: hoặc đi khỏi đây hoặc là...”
Ông không nói hết nhưng tôi cũng lờ mờ hiểu ra ngụ ý của ông. Ông nắm tay tôi và hôn: “Anh cầu xin em hãy cùng anh đi khỏi đất nước này, chúng ta sẽ đi thật xa, ở một nơi mà không một ai hay biết chúng ta là ai, chúng ta sẽ bắt đầu cuộc sống lại từ đầu, nhưng không phải với hai bàn tay trắng. Em sẽ không bao giờ phải lo lắng đến cuộc sống, em có thể dành toàn bộ thời gian và sức lực cho âm nhạc”.
Thẩm phán viên: Ông ấy có gọi tên đất nước đó ra không?
Nữ nghệ sĩ: Không. Tôi cũng không hỏi bởi vì tôi không đồng ý với lời đề nghị của ông ấy. Ông ấy đứng khựng lại, đầu rũ xuống khi nghe thấy mấy tiếng “Em - không - thể “. Sau này tôi nghĩ lại và hiểu rằng ông ấy đã trúng ba viên đạn này và tử nạn trước khi nhận hai viên đạn chì cũng có thể do chính tay ông bắn và cũng có thể có ai đó giúp đỡ. Khi phía trước mặt chúng tôi hiện ra hai chấm đèn đỏ của chiếc xe con thì ông Kovalenko quay lại không một lời chào tạm biệt. Tôi còn đứng lại một lúc lâu, vừa châm thuốc hút vừa nhìn theo cái bóng đen lầm lũi bước đi, trong lòng không khỏi gợn lên một tình cảm thương hại đối với con người có thể gọi là ân nhân mà sau này tôi đã cư xử với ông ấy chưa thật đúng. Búng mẩu thuốc lá mới hút được một nửa qua thành cầu, tôi ngồi vào xe. Chiếc xe chậm chạp lăn bánh trên những thanh gỗ lớn lát sàn cầu. Vừa đi hết chiều dài chiếc cầu dài, tôi giật mình vì hai tiếng nổ khô khốc vang lên trong đêm khuya thanh vắng. Người lái xe bỗng buột miệng nói:
- Giờ này mà vẫn còn có thằng lọ mọ đi săn.
24
Lời đề nghị của ông Fadman thật bất ngờ, chẳng khác nào việc ông đưa cho tôi đọc tập hồ sơ về vụ án. Tôi tưởng mình nghe nhầm và hỏi lại một lần nữa.
- Có thể vào thăm Tachiana được sao?
- Tôi sẽ thu xếp cho - ông ngừng lại suy nghĩ một lát và nói tiếp - Thứ ba tuần sau.
Hôm nay đã là chủ nhật. Còn hai ngày nữa. Không hiểu sao, tôi nghĩ ngay đến Trọng và muốn rủ anh cùng vào thăm để đưa món quà của vợ anh đến tận tay Thảo. Trong thời điểm này, nó có tác dụng nâng đỡ tinh thần rất lớn. Tôi muốn bằng sự hiện diện của mình và anh Trọng sẽ làm cô cảm thấy gần gũi với Việt Nam hơn trong những giây phút khó khăn, những giây phút mà ngay cả những người bạn thân cũng có khi ngại liên hệ vì sợ bị liên lụy, sợ bị ảnh hưởng đến con đường công danh của mình mà tìm cách xa lánh.
Tôi tìm cách gọi điện cho Trọng thì anh lại đang đi công tác khảo sát tại một nhà máy sản xuất chế biến cá ở dưới vùng nghỉ mát Crưm. Anh chỉ nói qua điện thoại rằng nếu thu xếp được anh sẽ bay về K. còn không thì sau chuyến đi anh sẽ qua thăm. Qua giọng nói của anh, tôi có cảm tưởng như anh lại phát hiện ra châu Mỹ một lần nữa. “Mình bị phong cảnh của Crưm hút mất hồn rồi, đầu óc chếnh choáng như say rượu vậy”. Đấy là câu kết thúc cuộc nói chuyện qua điện thoại ngắn ngủi của anh.
Buổi sáng thứ ba, đúng lúc tôi định bước ra khỏi cửa ký túc xá để đến nơi hẹn với ông Fadman thì bà gác cổng gọi giật lại. Bà chìa cho tôi một bức điện và nói:
- Bức điện đến từ hôm kia nhưng tìm cậu không thấy đâu. Đừng quá mải chơi đấy nhé, con gái Ucraina thời nay đừng tin chúng nó, chỉ thích uống rượu và nhảy đầm thôi! Cứ ai có tiền là chúng nó theo.
Tôi chộp lấy bức điện trong tay bà và đọc lướt qua. Đầu óc cảm thấy chao đảo. Mẹ tôi đang bị ốm nặng vì một cơn xuất huyết não. “Phải lấy vé máy bay ngay hôm nay thôi, không thể chậm trễ được”.
25
Tôi vào gặp Tachiana trong vòng mười lăm phút. Cô trông có gầy đi, dưới mắt có vệt quầng thâm chứng tỏ nhiều đêm mất ngủ. Tôi đưa cho cô một số thực phẩm và nói rằng trong mấy ngày tới sẽ có anh Trọng, chồng của người phụ nữ đã tặng cô chiếc trâm cài đầu năm nào vào thăm cô. Tôi nói rằng sau chuyến về phép lần này, khi sang tôi sẽ có câu chuyện quan trọng muốn nói với cô. Cô hỏi vặn tôi bằng tiếng Việt là tại sao không thể nói ngay bây giờ. Tôi trả lời nửa đùa nửa thật rằng, biết đâu đó ở trong căn phòng này người ta đặt máy nghe trộm thì sao. Cả hai chúng tôi đều cùng phì cười. Song, nụ cười của cả hai đều có cái gì đó gượng gạo. Mỗi người đều có những đau khổ riêng của mình mà không nói ra được.
Lúc ra về, tôi hôn tay cô. Cô nói rằng xong vụ này sẽ tiếp tục viết luận án của mình và chúc mẹ tôi chóng bình phục.
Tôi không ngờ rằng để được gặp lại cô, ông Tạo đã đưa ra một con số mà ngay lúc đó tôi không thể tin được: mười năm trời, mà lại trong một hoàn cảnh không ai có thể ngờ tới.
Khi máy bay đáp xuống sân bay Nội Bài, tôi rơi vào vòng tay của những người thân ra đón, rồi tiếp đến những ngày tháng túc trực trong bệnh viện và cuối cùng là sự ra đi của con người mà tôi yêu quý nhất, song lại làm cho bà khổ tâm nhiều nhất. Tôi bất lực khi lý giải những tình cảm mâu thuẫn của mình đối với mẹ. Cuộc sống của tôi trong những ngày tháng đó tăng tốc đến chóng mặt, nhiều giá trị, ước mơ hoài bão mà trước đó tôi tôn thờ và ấp ủ ở nước ngoài bị đổ nhào. Nanh vuốt của cuộc sống đời thường giơ ra khiến tôi vừa sởn gai ốc vừa kích thích máu lãng du trong con người tôi. Tôi đồng ý làm hợp đồng với một công ty du lịch xuyên Việt. Đất nước mà tôi tưởng là mình đã biết quá rõ không ngừng làm tôi kinh ngạc qua các chuyến đi. Kinh ngạc cả về vẻ đẹp cũng như sự nghèo khó của nó.
Tôi cũng ngạc nhiên khi nghĩ tới ý định quay trở lại Ucraina đã tan biến đi từ lúc nào. Có lẽ chính là lúc tôi đứng lặng bên ngôi mộ của mẹ và như cảm nhận thấy phần xương thịt yêu quý ấy đang thấm dần vào mảnh đất tôi đang đứng. Những gì tôi nếm trải trong hơn mười năm lưu lạc nơi đất khách quê người trở nên xa vời, như một tiếng gọi đò tan biến vào màn đêm thanh vắng. Thỉnh thoảng, trong những giấc mơ có những khung cảnh, gương mặt của mảnh đất mà tôi đã từng sống thoáng qua, nó làm tâm trạng tôi gợn lên chút ưu tư trước khi bật dậy khỏi giường. Tôi cũng có lần mơ thấy Tachiana. Tôi xem đó là một giấc mơ đẹp và khi tỉnh dậy rồi vẫn còn thấy tiếc. Tôi đã vào nghĩa trang Trường Sơn, tận mắt nhìn thấy những cánh đồng mộ chạy ngút tầm mắt và không hiểu sao tôi bỗng cảm thấy số phận của nữ nghệ sĩ Tachiana cũng chỉ là một nỗi đau vô cùng nhỏ bé nếu so với nỗi đau mà hàng triệu người dân Việt Nam phải chịu đựng trong cuộc chiến tranh dài nhất trong lịch sử vừa qua. Phải chăng, nỗi đau mới là mẫu số chung của cuộc sống con người?
Trong mười năm sau đó, tôi thay đổi khá nhiều nghề và cuối cùng cảm thấy hài lòng với nghề “cha truyền con nối” - nghề phóng viên. Đó cũng chính là nguyện vọng của mẹ tôi trước lúc lâm chung. Tôi làm cho báo “Dân trí” vì cảm thấy tờ báo này hợp với “gu” của mình. Nghề này mở ra cho tôi nhiều mối quan hệ, nhiều cánh cửa không phải ai cũng có thể bước vào. Song, cái mà tôi thấy lợi trước mắt là nghề báo trợ lực cho người viết tiểu thuyết không chỉ vì nó buộc ta phải viết ngay lập tức và tạo mối liên hệ thường xuyên với ngôn từ sống động, mà chủ yếu còn vì nó cho phép thường xuyên tiếp xúc với thực tế.
Câu chuyện tôi đang kể trên bị gián đoạn mười năm trời. Và trên thực tế, tôi cũng bỏ lay lắt bản thảo trong ngần ấy năm. Nhiều lần, bản thảo có nguy cơ bị tiêu hủy. Lúc thì do chuyển nhà, vợ tôi đã xếp nó vào đống giấy lộn cần châm một mồi lửa, lúc lại bị hai thằng con trai đem ra bồi dán đầu sư tử trong đêm Trung thu. Nhiều lần, tôi cố gắng hư cấu thêm đoạn kết của câu chuyện nhưng đều cảm thấy nhợt nhạt, thiếu máu. Nhưng không hiểu sao, tôi vẫn có một linh cảm rằng thế nào cuộc sống cũng sẽ mách bảo cho tôi lối thoát của cuốn tiểu thuyết đang dở dang này. Vấn đề là ở thời gian, phải kiên trì chờ đợi.
Cuối cùng, tôi cũng đã tìm ra mà lại vào một thời điểm không hề mong đợi.
(Còn tiếp kỳ sau)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét