24/12/11
19/10/11
Một lực lượng cơ bản, nhân tố phát triển của xã hội
Nhân ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10, ttst bnd xin chúc các bà, các chị, các cô... luôn thành đạt và hạnh phúc!
(Nguồn ảnh: ngobadung) |
1/10/11
Thành phố chống phong tỏa
Nhà báo lão thành Hoàng Tuấn Nhã |
“Thành phố chống phong tỏa” – Những trang sử ký thấm đẫm mồ hôi và máu không thể bị lãng quên của Hải phòng!
(Phỏng vấn nhà báo lão thành Hoàng Tuấn Nhã, tác giả cuốn nhật ký “Thành phố chống phong tỏa”, nguyên phóng viên thường trú báo Nhân Dân tại Hải Phòng từ 15-5 đến 20-11-1972)
Một căn hộ đơn sơ với những đồ đạc đã bắt màu thời gian, nằm kề bên hồ Ngọc Khánh – quận Ba đình Hà nội, là nơi trú ngụ của một ông già đã hơn 90 tuổi – Đó là nhà báo, kiêm họa sĩ, dịch giả Hoàng Tuấn Nhã. Ông là người thiên về cuộc sống nội tâm, không thích phô trương và ít giao du bạn bè. Có lẽ, niềm vui duy nhất của ông bây giờ là đọc báo, các loại báo và vui vầy với các cháu nội. Ngót nghét một thế kỷ đã qua đi, song trí nhớ của ông vẫn còn rất minh mẫn mặc dù thính giác bị suy giảm nhiều. Bởi vậy, cuộc phỏng vấn của chúng tôi gọi là một cuộc “ bút đàm” thì đúng hơn, diễn ra trong không khí im lặng của căn phòng treo kín tranh do chính ông vẽ. Bên ngoài cửa sổ, tiếng ồn ào náo nhiệt tưởng không bao giờ ngừng của các dòng xe cộ ngược xuôi trên đường Nguyễn Chí Thanh. Và, cả cái nắng gay gắt làm cháy xém những chiếc lá chanh trên ban công đầy cây cảnh, chậu hoa.
PV. Thưa ông, ông có biết rằng cuốn nhật ký “ Thành phố chống phong tỏa” của ông được nhiều người đánh giá là bằng chứng ghi chép sinh động và đầy đủ nhất về cuộc chiến tranh chống phong tỏa thủy lôi ác liệt của thành phố Hải phòng năm 1972, hay không? Mời ông xem đoạn trích bài báo do Nguyễn Ngọc Linh, người trực tiếp tham gia rà phá thủy lôi ở Hải phòng lúc đó, viết về cuốn sách của ông : “ Đọc lại cuốn nhật ký này, tôi như sống lại thời kỳ thành phố Hải Phòng bị phong tỏa, bắt gặp lại hình ảnh của các chiến sĩ phá thủy lôi Ty Bảo Đảm Hàng Hải dũng cảm, yêu đời, hình ảnh những chiếc tàu phá lôi hùng dũng tiến vào bãi thủy lôi và bom từ trường, hình ảnh những cột nước dâng cao và những âm thanh như những tiếng gào thét vô vọng vì không đánh trúng vào mục tiêu nào cả...”.
H.T.N. (đưa tay lên lau những giọt nước mắt) Vậy là ngòi bút của tôi đã có ích cho đời. Khi đó, tôi chỉ có một suy nghĩ duy nhất là làm sao chuyển tải được lên trang viết của mình những điều tận mắt nhìn thấy, nghe thấy và cảm thấy một cách trung thực nhất. Thậm chí cả đến mùi vị của thuốc nổ từ quả thủy lôi bị phá hủy quyện với mùi bùn tanh của vùng cửa sông Cấm. Mặc dù hoàn toàn có thể viết qua cách hỏi chuyện những anh em đi phá thủy lôi trở về, nhưng tôi đã khoác phao cứu sinh lên người và xuống “ đĩa bay ” cùng anh em ra khơi. Đúng, những cột nước cao lừng lững, những mảnh canô vỡ nát loang lổ máu, những cái bắt tay ôm hôn chúc lên đường bình an nhưng hóa ra lại là vĩnh biệt... bốn chục năm rồi, vẫn cứ như mới hôm quá vậy.
PV. Ông đã từng trực tiếp sống, làm việc “vào sinh ra tử” cùng các chiến sĩ phá thủy lôi, vậy ấn tượng gì sâu sắc nhất để lại trong ông cho đến ngày hôm nay?
H.T.N – Đó là lòng dũng cảm và mưu trí vô song, coi thường nguy hiểm, coi thường cái chết của các chàng trai phá thủy lôi còn rất trẻ. Họ đã đặt nhiệm vụ được Tổ quốc giao phó lên trên hết mà không hề đòi hỏi một sự đền đáp gì. Bây giờ người ta hay lý giải và tìm nguyên nhân về sự thất bại của Mỹ tại chiến trường Việt Nam, theo tôi nguyên nhân đầu tiên và cũng là quan trong nhất đó là - Chất lượng của nhân dân, của những chàng trai, cô gái mà tôi đã có hạnh phúc được kề vai sát cánh với họ trong những ngày tháng đáng nhớ nhất của cuộc đời, mà bộ gen “sẵn sàng sả thân vì tổ quốc” đã được mã hóa, được di truyền qua hàng nghìn năm lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc.
PV. Người ta hay nói: “một giọt nước cũng có thể phản chiếu cả bầu trời”. Vậy theo ông, những ngày tháng Hải Phòng chống phong tỏa có thể coi là “một giọt nước” phản chiếu cả cuộc chiến tranh Việt Nam được không?
H.T.N – Cả cuộc đời làm báo với tư cách là phóng viên chiến tranh của tôi trải dài theo các chiến sự xảy ra trên mảnh đất Việt nam. Cuộc đụng đầu giữa Mỹ và Việt Nam là một cuộc đụng đầu mang nhiều bí ẩn nhất, cần sự chung sức của các sử gia, các chính khách, nhà báo, nhà văn...để tìm cho ra được lời giải. Lời giải về khả năng chịu đựng của con người trong những hoàn cảnh sống tưởng chừng như mọi sinh vật cũng phải bị hủy diệt, thế mà con người Việt nam vẫn tồn tại, vẫn sinh sôi, vẫn chống trả lại một cách ngoan cường. Nếu câu hỏi của anh đã dùng đến hình ảnh ”giọt nước” thì cho phép tôi thêm một từ “một giọt nước... sôi”. Tại sao lại sôi? Như mọi người biết, đế quốc Mỹ đã tiến hành 9 năm leo tháng phá hoại Miền Bắc bằng không quân và hải quân. Trong đó, phong tỏa thủy lôi được giới quân sự Mỹ kỳ vọng nhất. Ngày 26/2/1967, không quân Mỹ thả những quả thủy lôi đầu tiên trong chiến dịch phong tỏa cảng sông miền Bắc. Một trong những chiến thuật của Mỹ là sử dụng hỗn hợp nhiều loại thủy lôi: thủy lôi từ trường (cảm ứng từ thay đổi thì phát nổ), thủy lôi âm thanh (tàu phát ra sóng âm thì phát nổ), thủy lôi chạm nổ (tàu chạy qua chạm vào thì phát nổ), thủy lôi áp suất (áp suất tàu đi qua thay đổi thì phát nổ). Những loại thủy lôi trên đều nhắm tới một mục tiêu nhất định, dùng để đánh chìm nhiều loại tàu chiến, tàu vận tải khác nhau của ta. Có loại chỉ chờ tàu trọng tải lớn mới phát nổ, tăng hiệu quả phá hoại. Ngoài ra, Mỹ còn dùng thủy lôi “định lần” (ví dụ, tàu chạy qua 30 lần mới nổ), dùng để khai thác sự mất cảnh giác, khiến ta lầm tưởng tuyến đường sông này an toàn và mạnh dạn cho nhiều tàu vận tải đi qua... Âm mưu gây khó khăn cho lực lượng rà phá. Bước đầu, chúng đã gây khó khăn cho việc chi viện cho miền Nam và giữa các nước xã hội chủ nghĩa giúp đỡ Việt Nam. Tình hình hết sức cấp bách, hầu hết các loại thủy lôi đều là loại áp dụng nhiều kỹ thuật mới, ngay cả các nước trong khối XHCN như Liên Xô, Trung Quốc cũng không có nhiều thông tin và phương tiện rà phá hiệu quả. Vì vậy, với phương châm “tự cứu mình trước khi người cứu”, chúng ta chủ động tìm cách chống phong tỏa thủy như: tìm mua những tài liệu nước ngoài (chủ yếu ở các nước đồng minh của Mỹ như Nhật, Pháp, Đài Loan...) về biên dịch tìm để hiểu cấu tạo, nguyên lý hoạt động của thủy lôi, cử nhiều đoàn cán bộ đi học kỹ thuật ở nước ngoài để phát triển nhân lực cho công tác chống phong tỏa thủy lôi. Đặc biệt, Bộ quốc phòng điều động 32 kỹ sư toàn miền đi học ở các nước về thành một nhóm để nghiên cứu và vạch ra các phương pháp phá thủy lôi. Tôi vẫn còn nhớ khẩu hiệu của các chiến sĩ phá lôi lúc đó là : "Thủy lôi chưa sạch, chưa về quê hương". Những cán bộ, người thợ Ty Bảo đảm hàng hải bắt tay vào cuộc chiến. Đội Quyết Thắng có 30 người, có người viết đơn xin vào đội bằng máu, đội trưởng là Nguyễn Thái Phong, sau này được anh em phong danh hiệu "Vua phá lôi", đội nhận được sự giúp đỡ của C8 Hải quân, cụ thể là Trương Thế Hùng - chuyên gia phá thủy lôi của Hải quân Việt nam. Người lái canô thử nghiệm phá lôi là anh Lê Văn Lợi, ba lần trước khi anh đi, đội đều truy điệu sống. Anh dũng cảm nói “tôi đi, có chết, chết một mình”. Với những con người như vậy, chúng ta thắng Mỹ cũng là một lẽ đương nhiên.
PV. Để tìm hiểu về cuộc chiến tranh Việt nam, cuốn sách của ông chắc chắn sẽ là một tư liệu quý. Vậy ông có mong muốn tái bản lại cuốn nhật ký độc nhất vô nhị về Hải Phòng đó không?
H.T.N – Thời gian không buông tha ai cả. Những người tham gia, chứng kiến cuộc chiến chống phong tỏa cảng Hải Phòng đến ngày hôm nay chắc cũng đã già cả, rồi dần dần thưa dần... Ký ức về họ, về những việc làm vì tổ quốc của họ - không thể để bị trôi vào quên lãng một cách vô trách nhiệm. Đất nước hiện nay, nhất là thế hệ trẻ, cần phải được biết các bậc cha ông đã đổ máu ra sao để có được một bến cảng bình yên, một dải bờ biển xanh ngắt cho người dân lao động nghỉ ngơi cuối tuần. Mỗi hạt cát biển Đồ sơn và các cảng biển khác, cũng đã thấm máu các chiến sĩ phá lôi năm nào. ..
PV. Xin cảm ơn ông về cuộc “bút đàm”.
(Báo Thời nay)
12/8/11
Lũ chuột, hai ông văn sĩ già và cô cháu gái
Truyện ngắn của Vũ Tuấn Hoàng
- Ông hỏi tôi sợ nhất điều gì trên đời, phải không?
Makxim Gorki chưa nói dứt lời thì tiếng kêu thất thanh của phụ nữ từ trên tầng hai vọng xuống làm đứt đoạn câu chuyện giữa hai ông văn sĩ già đang nằm phơi nắng Địa Trung Hải, trên đôi ghế bố xếp song song dưới gốc cam. Một giây sững sờ trôi qua. Gorki nhỏm người dậy, cốc nước nho cầm trên tay sánh ra rơi lên chiếc quần vải thô màu trắng bạc phếch đã sờn gối. Còn Romen Rollan thì đánh rơi cái tẩu thuốc đang hút dở xuống sân gạch vì chắc nhận ra tiếng kêu của vợ mình.
- Chuyện gì thế? Rollan hấp tấp hỏi, vừa nhìn về phía cửa sổ trên tầng hai nơi phát ra những tiếng kêu, vừa quờ tay xuống dưới sàn gạch tìm chiếc tẩu gỗ.
- Chắc hai đứa cháu tôi lại giở trò gì rồi đây…
Gorki nói chưa dứt lời thì từ trong cửa chính của ngôi biệt thự, bà Anna – người vợ gốc Nga của nhà văn Pháp, chạy vụt ra và kêu toáng lên:
- Ôi khủng khiếp quá, sợ quá!
Mặc dù đã ở vào cái tuổi năm mươi, song trong lúc hoảng hốt sợ hãi, bà Anna trông trẻ hẳn ra bởi những cử chỉ luống cuống và khuôn mặt đỏ bừng lên như thiếu nữ mỗi khi xấu hổ. Bà chạy ra chỗ chồng ngồi và cuống quít chỉ tay lên phía cửa sổ trên tầng hai:
- Le souris! Le souris!
Nghe thấy vợ nói vậy, Rollan phá ra cười sằng sặc, tiếng cười của ông cũng lây sang luôn cả chủ nhà. Hai ông bạn già ngả ngốn cười vang. Anna nhìn hai người với ánh mắt ngạc nhiên pha chút giận dỗi.
- Sao các anh lại cười, trong khi tôi suýt nữa thì rơi tim ra ngoài?
- Anh lại tưởng Đại chiến thế giới thứ II nổ ra hoặc động đất gì đó – Rollan vừa nói vừa nhồi lại tẩu thuốc, nụ cười dưới hàng ria mép đã bạc trắng làm cho hai bên má hóp của ông thêm nhăn nheo.
Đúng lúc đó, hai đứa cháu gái Masa và Đasa của nhà văn Gorki cùng chạy ùa tới bên ông và tranh nhau kể lại sự việc vừa xảy ra. Cô bé nào cũng muốn mình là người quan trọng nhất trong vụ việc này và được ông chú ý nhiều nhất.
- Những con chuột bé tí và đỏ hỏn ông ạ, trông rất đáng yêu.
- Cháu nhìn thấy có con chưa mở mắt, đuôi cũng bé.
- Ông đừng giết chúng nhé! Chúng cháu sẽ nuôi bằng cháo sữa.
- Bà Anna sợ chứ chúng cháu không sợ. Ông cho chúng cháu nuôi được không?
- Bà Anna chỉ đến ở chơi thôi, chứ bà có ở hẳn đây đâu mà lo.
Con bé em Đasa nhanh nhẩu chạy ngay đến gần Anna và liến thoắng hỏi:
- Bà không ở hẳn đây chứ? Khi nào bà về Pháp?
Câu hỏi thiếu tế nhị của cô bé khiến nhà văn Gorki ngượng, bèn lên tiếng để đánh trống lảng:
- Ừ, ông không giết chúng đâu. Nhưng các cháu phải tìm một cái lồng sắt và phải làm một cái nhà riêng cho lũ chuột ở ngoài vườn đấy nhé!
Bà Anna đã lấy lại được bình tĩnh và lên tiếng để làm tan đi bầu không khí bất tiện do câu hỏi ngây thơ của Đasa gây nên.
- Thôi, bà cháu mình đi ra sau vườn làm cái nhà bé tý cho lũ chuột con đi!
Ba bà cháu đi khuất rồi, hai ông bạn già lại quay trở lại câu chuyện bị gián đoạn. Song, hình như có một cái gì đó lấn cấn, gượng gạo vẫn chưa tan hết sau sự việc vừa qua. Có thể, chí ít cũng là từ phía Makxim Gorki cảm thấy như vậy. Ông rất yêu quý hai cháu gái, có thể nói đó là tài sản duy nhất mà ông sẵn sàng đánh đổi toàn bộ sự nghiệp văn chương của mình. Nhưng từ hôm ông bạn văn sĩ già người Pháp nổi tiếng cùng vợ đến ở chơi, thái độ của hai đưa trẻ đối với ông có điều gì đó khang khác. Chúng như giận dỗi với ông và cũng như ghen ty với hai vị khách từ phương xa tới đã cướp hết thời gian cũng như sự chú ý của người ông tốt bụng và đáng yêu của chúng. Cũng có thể, căn phòng của hai đứa trên tầng hai đã bị hai vị khách “tạm chiếm” nên chúng đâm ra khó chịu. Trẻ con không bằng lòng là thể hiện ra mặt, không giả dối được như người lớn.
Gorki bỗng nảy ra một ý nghĩ khiến ông tự thốt lên với mình một câu bằng tiếng Nga:
- Thật không ngờ cái con bé lại to gan đến như thế!
- Ông nói gì ? Rollan quay sang hỏi.
- À, không…. Tôi… bỗng nhớ ra một tứ thơ.
- Ông vẫn còn làm thơ được à? Còn tôi thì hình như cái giải thưởng Noben đã giết chết con người nghệ sĩ trong tôi rồi.
Sự vô tình nhắc tới giải thưởng này khiến Gorki định nói thêm gì đó nhưng nghĩ thế nào lại thôi. Một bầu không khí im lặng, nặng chĩu giăng ra giữa hai chiếc ghế bố, giữa hai ông già đã hom hem, nhưng một người đã được đóng dấu “Noben”, còn một người sau bốn lần được đề cử vẫn bị khước từ chỉ vì bị xem là kẻ tuyên truyền cho chủ nghĩa Cộng sản. Hình như Rollan cũng hiểu được nguyên nhân im lặng do mình gây ra nên vội chuyển hướng câu chuyện:
- Bà xã nhà tôi là người sợ chuột nhất trên đời. Chết bà ấy cũng không sợ, nhưng sợ chuột. Còn tôi, chỉ sợ chết. Tôi sáng tạo, tôi viết văn, viết nhạc chỉ nhằm mục đích duy nhất là chống lại cái chết. Nếu có một thứ thuốc trường sinh bất tử thật cho con người, thì chắc chắn tôi sẽ quẳng bút đi ngay lập tức.
- Kể cũng khủng khiếp thật, nếu như con người ta không bao giờ chết – Gorki trầm ngâm khẽ nói và nheo nheo đôi mắt xanh nhìn xa xăm về phía rặng cam lúp súp chạy dài từ cổng nhà ra mãi sát tận bờ biển Sorrento xanh ngắt.
- Ông có biết, tôi đội ơn ai nhất trên đời này không? Tất nhiên là ngoài cha mẹ sinh thành ra. Nếu không có con người đó, thì không có tôi bây giờ. Tôi có thể dám nói chắc như đinh đóng cột vậy. Tôi không có ý định giải thích theo kiểu huyền bí, song có thể nói linh hồn của ông ấy đã nhập vào tôi.
- Chắc ông muốn nói đến Vonter hay Shekspia?
Romen Rollan lắc đầu và khoát tay làm một cử chỉ phản đối.
- Chính là Tolstoi của các ông. Các ông có cái tật cứ hay đi sùng bái các vĩ nhân nước khác, trong khi ngay trên mảnh đất của mình, trong môi trường ngôn ngữ của mình, có những con người rất đáng tôn làm thầy. Tôi mạn phép được kể câu chuyện liên quan tới con người này khi tôi còn là một chàng sinh viên ngoài hai mươi tuổi đang nghiên cứu lịch sử âm nhạc tại Roma. Lúc đó tôi chỉ là một chàng trai nhà quê tỉnh lẻ ở Pháp, không bao giờ nghĩ rằng mình sẽ viết văn và trở thành một nhà văn chuyên nghiệp. Thời gian đó, tôi bị khủng hoảng tinh thần, không biết chọn cho mình con đường nào để đi và cảm thấy cuộc sống thật vô nghĩa. Trong một khoảnh khắc cô đơn cùng cực, tôi đã nghĩ tới việc tự sát. Tôi nhớ, đêm hôm đó, mưa rất to, cây cối ngả nghiêng bên ngoài cửa sổ căn phòng nhỏ chỉ khoảng chục mét vuông. Tôi không ngủ được và đã quyết định viết một bức thư cho nhà văn nổi tiếng thế giới Tolstoi. Có thể nói, đây là một bước đi vô vọng của một kẻ bị ngã xuống sông khua tay loạn xạ để túm lấy bất cứ cái gì kể cả là một cọng rơm. Một gã vô danh tiểu tốt viết lá thư để cầu xin nhà văn danh tiếng vào bậc nhất thời đại lời khuyên cho mình trong cuộc sống – thật chẳng khác gì hành vi của một kẻ vô gia cư ôm mối tình đơn phương vô vọng với nàng công chúa kiều diễm. Tôi dán bức thư lại và đội trời mưa, đội dông bão chạy ra hòm thư ở ngoài quảng trường. Mặc dù không hy vọng thư trả lời, song tôi không thể chờ đến sáng được vì sợ lỡ một chuyến xe bưu điện đi lấy thư. Có lẽ, chỉ riêng hành động viết lá thư đó cũng đủ làm tôi thấy tâm hồn nhẹ đi như như con chiên xưng tội trước chúa vậy. Nhiều tuần lễ trôi qua và tôi đã quên bức thư đó. Thậm chí, đôi khi nghĩ lại còn cảm thấy xấu hổ vì hành động ngây thơ và trẻ con của mình. Thế rồi, vào một buổi chiều, một buổi chiều mà tôi ghi nhớ suốt đời. Mở cửa phòng bước vào, tôi trông thấy trên bàn có một phong bì thư dày, dấu bưu điện từ Nga, từ Iasna Poliana. – Kể đến đây, như có một luồng sinh khí xốc ông già Rollan lưng đã còng đứng bật dậy khỏi ghế và làm cử chỉ, như nửa thế kỷ trước, đang cầm giữ một chiếc phong bì thư vô hình - Tôi đã bật khóc và xé toạc lớp giấy bọc ngoài ra, ông có hình dung được không, ba mươi tám trang thư viết tay bằng tiếng Pháp của nhà văn vĩ đại Tolstoi được bắt đầu bởi hai chữ: “Cher Frère!” – Người em trai yêu quý! - Bức thư này đã quyết định số phận của tôi. Bức thư này đã làm tôi rung chuyển đến tận đáy sâu của bản thể. Tôi hiểu rằng những người như tôi viết thư cho ông có đến hàng ngàn. Bức thư viết cho một kẻ vô danh sống cách xa hàng vạn dặm này đã cướp đi hai ngày lao động của một nhà văn mà mỗi dòng chữ từ dưới ngòi bút ông viết ra có thể đong đo được bằng vàng nguyên chất. Tôi đúng là được tái sinh một lần nữa.
Nửa thế kỷ đã trôi qua mà ký ức vẫn còn làm Romen Rollan giàn giụa những giọt nước mắt biết ơn sâu nặng. Ông cứ đứng lặng đi một lúc lâu trong tư thế như đang cầu nguyện. Mái tóc bạc trắng bị gió biển xới lên rối bù. Rồi, ông rút khăn tay ra lau mắt.
- Thế mới đáng là một vĩ nhân chứ! Im lặng một lát, Rollan chậm chạp ngồi lại xuống ghế và quay sang hỏi - Thế Ông có định quay trở về tổ quốc không?
Gorki im lặng hồi lâu không trả lời. Có lẽ, đây là câu hỏi đè nặng lên trái tim ông những năm cuối này. Không mấy ai biết được rằng quan hệ của ông với Stalin trở nên vô cùng căng thẳng. Khi Lênin từ trần, Gorki đã viết hồi ức về vị lãnh tụ của giai cấp vô sản. Những trang viết này mặc dù bị kiểm duyệt rất gắt gao, song đã trở thành bất tử. Và đó cũng là cái bất hạnh cho ông: Vì thích văn phong cũng như uy tín của Gorki, Stalin muốn đặt ông viết tiểu sử cho chính bản thân mình. Ông không từ chối, thậm chí đã viết thử, nhưng từ ngòi bút ông viết ra, những con chữ cứ ngả nghiêng, lộn xộn, sáo và vô hồn. Những con chữ từ bộ óc đi xuống dưới cánh tay cầm bút của ông nhưng không hề đi qua tim.
- Trong tất cả nỗi bất hạnh của con người, không gì khổ tâm bằng tình yêu đơn phương, không được đáp lại – Gorki không trả lời thẳng vào câu hỏi của ông bạn già mà đọc to một câu lấy từ một truyện ngắn của ông viết khi còn trẻ - Đối với tôi, trở về nước Nga bây giờ cũng giống như trở về với người vợ chính thức đã ly dị từ lâu.
- Nhưng người vợ đó vẫn dang tay đón ông với nhà cao cửa rộng, một cuộc sống đầy đủ tiện nghi, danh vọng... Ông chẳng phải lo nghĩ gì, chỉ viết và viết mà thôi.
- Vừa nãy ông nói giải thưởng Noben đã giết chết con người nghệ sĩ trong ông thì đối với tôi, một cuộc sống suốt ngày yến tiệc, hội họp và các huân huy chương cũng chẳng khác gì liều độc dược triệt sản.
- Tôi nghe nói ông phản đối cả việc Stalin muốn lấy tên ông đặt cho một thành phố ở Nga? Rollan ngồi nhỏm người dậy.
- Ông ta muốn dùng đôi bàn tay này – nói đến đây, Gorki giơ bàn tay phải già nua, nhăn nheo nhưng vẫn còn gân guốc ra phía trước – để tạc vào Bất tử cái tên Stalin. Ông ta quá hiểu rằng chỉ có Văn chương đích thực mãi mãi trường tồn, còn chính trị chỉ là chuyện một sớm một chiều. Ông ấy muốn được ngồi lên con thuyền Nô-ê của văn chương để khỏi bị chìm vào quên lãng.
- Vua chúa chỉ có thể sống được trong tác phẩm của cánh chúng ta mà thôi! Ngoài ra, họ chỉ là những xác ướp, những lăng tẩm rêu phong mốc meo.
- Họ muốn xây tượng đài trong lòng dân chúng nên sẵn sàng dùng tiền của, bổng lộc để thuê mướn cánh thợ xây này – Nói đến đây, Gorki vỗ vỗ vào bộ ngực lép kẹp vì chứng bệnh ho lao của mình – Nhưng thằng này không phải dễ sai khiến đâu nhé!
Đúng lúc đó, từ phía sau nhà, con bé Đasa chạy ra kêu toáng lên:
- Ông ơi, chúng cháu đã làm xong nhà cho lũ chuột rồi, ông ra mà xem – Con bé vừa liến thoắng nói vừa chạy tới kéo tay ông nội bằng được – ông ra xem đi, nhanh lên!
- Từ từ đã nào, để ông đi dép đã – Rồi quay sang phía Rollan, Gorki nói với vẻ đầy hóm hỉnh – ông đợi tôi chút nhé, đây mới là bà hoàng của tôi, tôi phải tuân theo lệnh bà ấy ngay, vô điều kiện.
* * *
Buổi chiều, sau khi tiễn vợ chồng Rollan xuống tàu thủy để trở về Pháp, Gorki lững thững đi bộ trên con đường rợp bóng cam từ cảng dẫn về ngôi biệt thự của mình. Những quả cam vàng trĩu nặng khẽ đung đưa xào xạc trong vòm lá như đùa giỡn với làn gió biển hanh khô, thoang thoảng mùi cá tanh nồng từ đống lưới phơi trên những chiếc thuyền gỗ lật úp trên bãi cát. Gorki cúi xuống tháo đôi giày da đen để bàn chân già nua chai sần, chằng chịt gân xanh, được thoải mái tiếp xúc với lớp cát nóng. Đã lâu lắm rồi, ông không được đi chân đất. Nhìn lên những cánh hải âu mong manh đang chao lượn chấp chới trên bầu trời thu xanh ngắt của nước Ý, ông có linh cảm rằng đây là cuộc chia tay vĩnh viễn với ông bạn văn sĩ già người Pháp mà ông cảm phục tài năng cũng như khí tiết nghệ sĩ. Một nỗi buồn mênh mang bỗng xâm chiếm cõi lòng. Bất giác, Gorki cất giọng khàn khàn đọc một đoạn trong bài thơ “ Ta buồn rầu lặng ngắm vườn thu” của thi sĩ Xergay Esenhin mà ông yêu quí:
Như cơn mưa nhỏ buông rơi từng hạt
Rớt tự hồn ta, chết lặng rã rời
Có sao đâu, ta chẳng sợ mưa rơi
Dành cho ta đã có niềm vui khác
Đời vốn chẳng có gì còn lại hết
Có chăng là ẩm ướt với vàng phai
Câu cuối cùng, ông cứ đọc đi đọc lại mãi không biết bao nhiêu lần, cho đến khi nhìn thấy bóng hai đứa cháu đang đứng bên cửa sổ trên tầng hai giơ tay vẫy gọi.
Ông cũng giơ đôi giày lên vẫy đáp lại. Và, chợt nhớ ra rằng quên chưa trả lời câu hỏi của ông bạn già về điều gì đáng sợ nhất trên đời này.
Đêm cuối thu, khí trời Địa Trung Hải se lạnh. Gorki ngồi trầm tư nhìn đăm đăm vào ngọn lửa đang nhảy nhót trong lò sưởi. Ngắm nhìn lửa cháy trong bếp lò là một thú vui mà mỗi buổi chiều ông và hai đứa cháu gái vẫn thường làm. Chúng đi nhặt ở trong khu rừng gần đây những quả thông khô còn thơm phức mùi nhựa tươi. Cả căn phòng bỗng chốc tràn ngập mùi thơm dễ chịu, một mùi thơm rất đặc trưng của nông thôn Nga. Gorki đang cân nhắc rất lung lời đề tựa cho Bộ tiểu thuyết cuối cùng của đời mình. Đầu óc ông luôn luôn vương vấn hình bóng của người phụ nữ đó. Ông cảm thấy vô cùng cô đơn khi người đàn bà đó đã bỏ ông để trở về với người chồng cũ. Chuyến đến chơi hai tuần của ông bạn già Rollan cũng không làm nguôi ngoai được cảm giác cô đơn trống vắng.
Họ đã có những ngày tháng hạnh phúc nhất bên nhau, cùng nhau thả bước đi dạo trên những con phố cổ, nơi mà các biệt thự chìm trong rừng thông vi vu tiếng gió từ biển thổi vào. Họ thì thầm nói chuyện, và ngay cả sự im lặng cũng đầy ý nghĩa. Khuôn mặt cô sáng lên một cách dịu dàng, đôi mắt sâu rạng ngời sức sống. Cô đang ở độ chín của người đàn bà. Cũng có thể, tất cả chỉ là ảo tưởng. Nhà văn đang già cỗi cố gắng tự nhủ lòng mình rằng người phụ nữ đó đã hạnh phúc khi ở bên ông. Nén một tiếng thở dài, Gorki ném một quả thông khô vào ngọn lửa, rồi đứng dậy đi về phía bàn làm việc. Ông chấm bút vào lọ mực và bặm môi lại nắn nót viết lên trang đầu của bản thảo: “Tặng Maria, một tâm hồn Nga trong suốt”. Hình như, chỉ viết có mấy chữ đó thôi mà ông đã cảm thấy mệt, phải ngả người ra ghế. Bây giờ, ông như cảm thấy mình chẳng có điều gì phải sợ trên cõi đời này nữa. Bỗng, ông giật mình vì có ai đó nắm lấy khuỷu tay ông giật giật. Quay người lại, ông nhận ra đứa cháu gái Đasa trong bộ đồ ngủ màu hồng.
- Khuya rồi sao cháu chưa ngủ?
Gorki bế cháu đặt lên lòng mình:
- Cháu không ngủ được ạ, cháu muốn đến… nhận lỗi với ông – Đasa lí nhí nói, vẻ mặt như sắp khóc.
- Ông hiểu, ông hiểu!
Gorki nở nụ cười đôn hậu và xoa đầu cháu gái.
- Cháu phải nhớ chăm sóc lũ chuột cho cẩn thận đấy nhá!
Tiếng quả thông ở trong lò sưởi nổ lách tách hòa cùng chiếc đồng hồ treo tường nghiêm trang điểm một tiếng du dương…
Vũ Tuấn Hoàng
(Yanta – Crưm – Mưa tầm tã)
Makxim Gorki chưa nói dứt lời thì tiếng kêu thất thanh của phụ nữ từ trên tầng hai vọng xuống làm đứt đoạn câu chuyện giữa hai ông văn sĩ già đang nằm phơi nắng Địa Trung Hải, trên đôi ghế bố xếp song song dưới gốc cam. Một giây sững sờ trôi qua. Gorki nhỏm người dậy, cốc nước nho cầm trên tay sánh ra rơi lên chiếc quần vải thô màu trắng bạc phếch đã sờn gối. Còn Romen Rollan thì đánh rơi cái tẩu thuốc đang hút dở xuống sân gạch vì chắc nhận ra tiếng kêu của vợ mình.
- Chuyện gì thế? Rollan hấp tấp hỏi, vừa nhìn về phía cửa sổ trên tầng hai nơi phát ra những tiếng kêu, vừa quờ tay xuống dưới sàn gạch tìm chiếc tẩu gỗ.
- Chắc hai đứa cháu tôi lại giở trò gì rồi đây…
Gorki nói chưa dứt lời thì từ trong cửa chính của ngôi biệt thự, bà Anna – người vợ gốc Nga của nhà văn Pháp, chạy vụt ra và kêu toáng lên:
- Ôi khủng khiếp quá, sợ quá!
Mặc dù đã ở vào cái tuổi năm mươi, song trong lúc hoảng hốt sợ hãi, bà Anna trông trẻ hẳn ra bởi những cử chỉ luống cuống và khuôn mặt đỏ bừng lên như thiếu nữ mỗi khi xấu hổ. Bà chạy ra chỗ chồng ngồi và cuống quít chỉ tay lên phía cửa sổ trên tầng hai:
- Le souris! Le souris!
Nghe thấy vợ nói vậy, Rollan phá ra cười sằng sặc, tiếng cười của ông cũng lây sang luôn cả chủ nhà. Hai ông bạn già ngả ngốn cười vang. Anna nhìn hai người với ánh mắt ngạc nhiên pha chút giận dỗi.
- Sao các anh lại cười, trong khi tôi suýt nữa thì rơi tim ra ngoài?
- Anh lại tưởng Đại chiến thế giới thứ II nổ ra hoặc động đất gì đó – Rollan vừa nói vừa nhồi lại tẩu thuốc, nụ cười dưới hàng ria mép đã bạc trắng làm cho hai bên má hóp của ông thêm nhăn nheo.
Đúng lúc đó, hai đứa cháu gái Masa và Đasa của nhà văn Gorki cùng chạy ùa tới bên ông và tranh nhau kể lại sự việc vừa xảy ra. Cô bé nào cũng muốn mình là người quan trọng nhất trong vụ việc này và được ông chú ý nhiều nhất.
- Những con chuột bé tí và đỏ hỏn ông ạ, trông rất đáng yêu.
- Cháu nhìn thấy có con chưa mở mắt, đuôi cũng bé.
- Ông đừng giết chúng nhé! Chúng cháu sẽ nuôi bằng cháo sữa.
- Bà Anna sợ chứ chúng cháu không sợ. Ông cho chúng cháu nuôi được không?
- Bà Anna chỉ đến ở chơi thôi, chứ bà có ở hẳn đây đâu mà lo.
Con bé em Đasa nhanh nhẩu chạy ngay đến gần Anna và liến thoắng hỏi:
- Bà không ở hẳn đây chứ? Khi nào bà về Pháp?
Câu hỏi thiếu tế nhị của cô bé khiến nhà văn Gorki ngượng, bèn lên tiếng để đánh trống lảng:
- Ừ, ông không giết chúng đâu. Nhưng các cháu phải tìm một cái lồng sắt và phải làm một cái nhà riêng cho lũ chuột ở ngoài vườn đấy nhé!
Bà Anna đã lấy lại được bình tĩnh và lên tiếng để làm tan đi bầu không khí bất tiện do câu hỏi ngây thơ của Đasa gây nên.
- Thôi, bà cháu mình đi ra sau vườn làm cái nhà bé tý cho lũ chuột con đi!
Ba bà cháu đi khuất rồi, hai ông bạn già lại quay trở lại câu chuyện bị gián đoạn. Song, hình như có một cái gì đó lấn cấn, gượng gạo vẫn chưa tan hết sau sự việc vừa qua. Có thể, chí ít cũng là từ phía Makxim Gorki cảm thấy như vậy. Ông rất yêu quý hai cháu gái, có thể nói đó là tài sản duy nhất mà ông sẵn sàng đánh đổi toàn bộ sự nghiệp văn chương của mình. Nhưng từ hôm ông bạn văn sĩ già người Pháp nổi tiếng cùng vợ đến ở chơi, thái độ của hai đưa trẻ đối với ông có điều gì đó khang khác. Chúng như giận dỗi với ông và cũng như ghen ty với hai vị khách từ phương xa tới đã cướp hết thời gian cũng như sự chú ý của người ông tốt bụng và đáng yêu của chúng. Cũng có thể, căn phòng của hai đứa trên tầng hai đã bị hai vị khách “tạm chiếm” nên chúng đâm ra khó chịu. Trẻ con không bằng lòng là thể hiện ra mặt, không giả dối được như người lớn.
Gorki bỗng nảy ra một ý nghĩ khiến ông tự thốt lên với mình một câu bằng tiếng Nga:
- Thật không ngờ cái con bé lại to gan đến như thế!
- Ông nói gì ? Rollan quay sang hỏi.
- À, không…. Tôi… bỗng nhớ ra một tứ thơ.
- Ông vẫn còn làm thơ được à? Còn tôi thì hình như cái giải thưởng Noben đã giết chết con người nghệ sĩ trong tôi rồi.
Sự vô tình nhắc tới giải thưởng này khiến Gorki định nói thêm gì đó nhưng nghĩ thế nào lại thôi. Một bầu không khí im lặng, nặng chĩu giăng ra giữa hai chiếc ghế bố, giữa hai ông già đã hom hem, nhưng một người đã được đóng dấu “Noben”, còn một người sau bốn lần được đề cử vẫn bị khước từ chỉ vì bị xem là kẻ tuyên truyền cho chủ nghĩa Cộng sản. Hình như Rollan cũng hiểu được nguyên nhân im lặng do mình gây ra nên vội chuyển hướng câu chuyện:
- Bà xã nhà tôi là người sợ chuột nhất trên đời. Chết bà ấy cũng không sợ, nhưng sợ chuột. Còn tôi, chỉ sợ chết. Tôi sáng tạo, tôi viết văn, viết nhạc chỉ nhằm mục đích duy nhất là chống lại cái chết. Nếu có một thứ thuốc trường sinh bất tử thật cho con người, thì chắc chắn tôi sẽ quẳng bút đi ngay lập tức.
- Kể cũng khủng khiếp thật, nếu như con người ta không bao giờ chết – Gorki trầm ngâm khẽ nói và nheo nheo đôi mắt xanh nhìn xa xăm về phía rặng cam lúp súp chạy dài từ cổng nhà ra mãi sát tận bờ biển Sorrento xanh ngắt.
- Ông có biết, tôi đội ơn ai nhất trên đời này không? Tất nhiên là ngoài cha mẹ sinh thành ra. Nếu không có con người đó, thì không có tôi bây giờ. Tôi có thể dám nói chắc như đinh đóng cột vậy. Tôi không có ý định giải thích theo kiểu huyền bí, song có thể nói linh hồn của ông ấy đã nhập vào tôi.
- Chắc ông muốn nói đến Vonter hay Shekspia?
Romen Rollan lắc đầu và khoát tay làm một cử chỉ phản đối.
- Chính là Tolstoi của các ông. Các ông có cái tật cứ hay đi sùng bái các vĩ nhân nước khác, trong khi ngay trên mảnh đất của mình, trong môi trường ngôn ngữ của mình, có những con người rất đáng tôn làm thầy. Tôi mạn phép được kể câu chuyện liên quan tới con người này khi tôi còn là một chàng sinh viên ngoài hai mươi tuổi đang nghiên cứu lịch sử âm nhạc tại Roma. Lúc đó tôi chỉ là một chàng trai nhà quê tỉnh lẻ ở Pháp, không bao giờ nghĩ rằng mình sẽ viết văn và trở thành một nhà văn chuyên nghiệp. Thời gian đó, tôi bị khủng hoảng tinh thần, không biết chọn cho mình con đường nào để đi và cảm thấy cuộc sống thật vô nghĩa. Trong một khoảnh khắc cô đơn cùng cực, tôi đã nghĩ tới việc tự sát. Tôi nhớ, đêm hôm đó, mưa rất to, cây cối ngả nghiêng bên ngoài cửa sổ căn phòng nhỏ chỉ khoảng chục mét vuông. Tôi không ngủ được và đã quyết định viết một bức thư cho nhà văn nổi tiếng thế giới Tolstoi. Có thể nói, đây là một bước đi vô vọng của một kẻ bị ngã xuống sông khua tay loạn xạ để túm lấy bất cứ cái gì kể cả là một cọng rơm. Một gã vô danh tiểu tốt viết lá thư để cầu xin nhà văn danh tiếng vào bậc nhất thời đại lời khuyên cho mình trong cuộc sống – thật chẳng khác gì hành vi của một kẻ vô gia cư ôm mối tình đơn phương vô vọng với nàng công chúa kiều diễm. Tôi dán bức thư lại và đội trời mưa, đội dông bão chạy ra hòm thư ở ngoài quảng trường. Mặc dù không hy vọng thư trả lời, song tôi không thể chờ đến sáng được vì sợ lỡ một chuyến xe bưu điện đi lấy thư. Có lẽ, chỉ riêng hành động viết lá thư đó cũng đủ làm tôi thấy tâm hồn nhẹ đi như như con chiên xưng tội trước chúa vậy. Nhiều tuần lễ trôi qua và tôi đã quên bức thư đó. Thậm chí, đôi khi nghĩ lại còn cảm thấy xấu hổ vì hành động ngây thơ và trẻ con của mình. Thế rồi, vào một buổi chiều, một buổi chiều mà tôi ghi nhớ suốt đời. Mở cửa phòng bước vào, tôi trông thấy trên bàn có một phong bì thư dày, dấu bưu điện từ Nga, từ Iasna Poliana. – Kể đến đây, như có một luồng sinh khí xốc ông già Rollan lưng đã còng đứng bật dậy khỏi ghế và làm cử chỉ, như nửa thế kỷ trước, đang cầm giữ một chiếc phong bì thư vô hình - Tôi đã bật khóc và xé toạc lớp giấy bọc ngoài ra, ông có hình dung được không, ba mươi tám trang thư viết tay bằng tiếng Pháp của nhà văn vĩ đại Tolstoi được bắt đầu bởi hai chữ: “Cher Frère!” – Người em trai yêu quý! - Bức thư này đã quyết định số phận của tôi. Bức thư này đã làm tôi rung chuyển đến tận đáy sâu của bản thể. Tôi hiểu rằng những người như tôi viết thư cho ông có đến hàng ngàn. Bức thư viết cho một kẻ vô danh sống cách xa hàng vạn dặm này đã cướp đi hai ngày lao động của một nhà văn mà mỗi dòng chữ từ dưới ngòi bút ông viết ra có thể đong đo được bằng vàng nguyên chất. Tôi đúng là được tái sinh một lần nữa.
Nửa thế kỷ đã trôi qua mà ký ức vẫn còn làm Romen Rollan giàn giụa những giọt nước mắt biết ơn sâu nặng. Ông cứ đứng lặng đi một lúc lâu trong tư thế như đang cầu nguyện. Mái tóc bạc trắng bị gió biển xới lên rối bù. Rồi, ông rút khăn tay ra lau mắt.
- Thế mới đáng là một vĩ nhân chứ! Im lặng một lát, Rollan chậm chạp ngồi lại xuống ghế và quay sang hỏi - Thế Ông có định quay trở về tổ quốc không?
Gorki im lặng hồi lâu không trả lời. Có lẽ, đây là câu hỏi đè nặng lên trái tim ông những năm cuối này. Không mấy ai biết được rằng quan hệ của ông với Stalin trở nên vô cùng căng thẳng. Khi Lênin từ trần, Gorki đã viết hồi ức về vị lãnh tụ của giai cấp vô sản. Những trang viết này mặc dù bị kiểm duyệt rất gắt gao, song đã trở thành bất tử. Và đó cũng là cái bất hạnh cho ông: Vì thích văn phong cũng như uy tín của Gorki, Stalin muốn đặt ông viết tiểu sử cho chính bản thân mình. Ông không từ chối, thậm chí đã viết thử, nhưng từ ngòi bút ông viết ra, những con chữ cứ ngả nghiêng, lộn xộn, sáo và vô hồn. Những con chữ từ bộ óc đi xuống dưới cánh tay cầm bút của ông nhưng không hề đi qua tim.
- Trong tất cả nỗi bất hạnh của con người, không gì khổ tâm bằng tình yêu đơn phương, không được đáp lại – Gorki không trả lời thẳng vào câu hỏi của ông bạn già mà đọc to một câu lấy từ một truyện ngắn của ông viết khi còn trẻ - Đối với tôi, trở về nước Nga bây giờ cũng giống như trở về với người vợ chính thức đã ly dị từ lâu.
- Nhưng người vợ đó vẫn dang tay đón ông với nhà cao cửa rộng, một cuộc sống đầy đủ tiện nghi, danh vọng... Ông chẳng phải lo nghĩ gì, chỉ viết và viết mà thôi.
- Vừa nãy ông nói giải thưởng Noben đã giết chết con người nghệ sĩ trong ông thì đối với tôi, một cuộc sống suốt ngày yến tiệc, hội họp và các huân huy chương cũng chẳng khác gì liều độc dược triệt sản.
- Tôi nghe nói ông phản đối cả việc Stalin muốn lấy tên ông đặt cho một thành phố ở Nga? Rollan ngồi nhỏm người dậy.
- Ông ta muốn dùng đôi bàn tay này – nói đến đây, Gorki giơ bàn tay phải già nua, nhăn nheo nhưng vẫn còn gân guốc ra phía trước – để tạc vào Bất tử cái tên Stalin. Ông ta quá hiểu rằng chỉ có Văn chương đích thực mãi mãi trường tồn, còn chính trị chỉ là chuyện một sớm một chiều. Ông ấy muốn được ngồi lên con thuyền Nô-ê của văn chương để khỏi bị chìm vào quên lãng.
- Vua chúa chỉ có thể sống được trong tác phẩm của cánh chúng ta mà thôi! Ngoài ra, họ chỉ là những xác ướp, những lăng tẩm rêu phong mốc meo.
- Họ muốn xây tượng đài trong lòng dân chúng nên sẵn sàng dùng tiền của, bổng lộc để thuê mướn cánh thợ xây này – Nói đến đây, Gorki vỗ vỗ vào bộ ngực lép kẹp vì chứng bệnh ho lao của mình – Nhưng thằng này không phải dễ sai khiến đâu nhé!
Đúng lúc đó, từ phía sau nhà, con bé Đasa chạy ra kêu toáng lên:
- Ông ơi, chúng cháu đã làm xong nhà cho lũ chuột rồi, ông ra mà xem – Con bé vừa liến thoắng nói vừa chạy tới kéo tay ông nội bằng được – ông ra xem đi, nhanh lên!
- Từ từ đã nào, để ông đi dép đã – Rồi quay sang phía Rollan, Gorki nói với vẻ đầy hóm hỉnh – ông đợi tôi chút nhé, đây mới là bà hoàng của tôi, tôi phải tuân theo lệnh bà ấy ngay, vô điều kiện.
* * *
Buổi chiều, sau khi tiễn vợ chồng Rollan xuống tàu thủy để trở về Pháp, Gorki lững thững đi bộ trên con đường rợp bóng cam từ cảng dẫn về ngôi biệt thự của mình. Những quả cam vàng trĩu nặng khẽ đung đưa xào xạc trong vòm lá như đùa giỡn với làn gió biển hanh khô, thoang thoảng mùi cá tanh nồng từ đống lưới phơi trên những chiếc thuyền gỗ lật úp trên bãi cát. Gorki cúi xuống tháo đôi giày da đen để bàn chân già nua chai sần, chằng chịt gân xanh, được thoải mái tiếp xúc với lớp cát nóng. Đã lâu lắm rồi, ông không được đi chân đất. Nhìn lên những cánh hải âu mong manh đang chao lượn chấp chới trên bầu trời thu xanh ngắt của nước Ý, ông có linh cảm rằng đây là cuộc chia tay vĩnh viễn với ông bạn văn sĩ già người Pháp mà ông cảm phục tài năng cũng như khí tiết nghệ sĩ. Một nỗi buồn mênh mang bỗng xâm chiếm cõi lòng. Bất giác, Gorki cất giọng khàn khàn đọc một đoạn trong bài thơ “ Ta buồn rầu lặng ngắm vườn thu” của thi sĩ Xergay Esenhin mà ông yêu quí:
Như cơn mưa nhỏ buông rơi từng hạt
Rớt tự hồn ta, chết lặng rã rời
Có sao đâu, ta chẳng sợ mưa rơi
Dành cho ta đã có niềm vui khác
Đời vốn chẳng có gì còn lại hết
Có chăng là ẩm ướt với vàng phai
Câu cuối cùng, ông cứ đọc đi đọc lại mãi không biết bao nhiêu lần, cho đến khi nhìn thấy bóng hai đứa cháu đang đứng bên cửa sổ trên tầng hai giơ tay vẫy gọi.
Ông cũng giơ đôi giày lên vẫy đáp lại. Và, chợt nhớ ra rằng quên chưa trả lời câu hỏi của ông bạn già về điều gì đáng sợ nhất trên đời này.
Đêm cuối thu, khí trời Địa Trung Hải se lạnh. Gorki ngồi trầm tư nhìn đăm đăm vào ngọn lửa đang nhảy nhót trong lò sưởi. Ngắm nhìn lửa cháy trong bếp lò là một thú vui mà mỗi buổi chiều ông và hai đứa cháu gái vẫn thường làm. Chúng đi nhặt ở trong khu rừng gần đây những quả thông khô còn thơm phức mùi nhựa tươi. Cả căn phòng bỗng chốc tràn ngập mùi thơm dễ chịu, một mùi thơm rất đặc trưng của nông thôn Nga. Gorki đang cân nhắc rất lung lời đề tựa cho Bộ tiểu thuyết cuối cùng của đời mình. Đầu óc ông luôn luôn vương vấn hình bóng của người phụ nữ đó. Ông cảm thấy vô cùng cô đơn khi người đàn bà đó đã bỏ ông để trở về với người chồng cũ. Chuyến đến chơi hai tuần của ông bạn già Rollan cũng không làm nguôi ngoai được cảm giác cô đơn trống vắng.
Họ đã có những ngày tháng hạnh phúc nhất bên nhau, cùng nhau thả bước đi dạo trên những con phố cổ, nơi mà các biệt thự chìm trong rừng thông vi vu tiếng gió từ biển thổi vào. Họ thì thầm nói chuyện, và ngay cả sự im lặng cũng đầy ý nghĩa. Khuôn mặt cô sáng lên một cách dịu dàng, đôi mắt sâu rạng ngời sức sống. Cô đang ở độ chín của người đàn bà. Cũng có thể, tất cả chỉ là ảo tưởng. Nhà văn đang già cỗi cố gắng tự nhủ lòng mình rằng người phụ nữ đó đã hạnh phúc khi ở bên ông. Nén một tiếng thở dài, Gorki ném một quả thông khô vào ngọn lửa, rồi đứng dậy đi về phía bàn làm việc. Ông chấm bút vào lọ mực và bặm môi lại nắn nót viết lên trang đầu của bản thảo: “Tặng Maria, một tâm hồn Nga trong suốt”. Hình như, chỉ viết có mấy chữ đó thôi mà ông đã cảm thấy mệt, phải ngả người ra ghế. Bây giờ, ông như cảm thấy mình chẳng có điều gì phải sợ trên cõi đời này nữa. Bỗng, ông giật mình vì có ai đó nắm lấy khuỷu tay ông giật giật. Quay người lại, ông nhận ra đứa cháu gái Đasa trong bộ đồ ngủ màu hồng.
- Khuya rồi sao cháu chưa ngủ?
Gorki bế cháu đặt lên lòng mình:
- Cháu không ngủ được ạ, cháu muốn đến… nhận lỗi với ông – Đasa lí nhí nói, vẻ mặt như sắp khóc.
- Ông hiểu, ông hiểu!
Gorki nở nụ cười đôn hậu và xoa đầu cháu gái.
- Cháu phải nhớ chăm sóc lũ chuột cho cẩn thận đấy nhá!
Tiếng quả thông ở trong lò sưởi nổ lách tách hòa cùng chiếc đồng hồ treo tường nghiêm trang điểm một tiếng du dương…
Vũ Tuấn Hoàng
(Yanta – Crưm – Mưa tầm tã)
29/7/11
Thỉnh thoảng thấy cuộc đời này thi vị
Đọc sách
LÊ THIẾU NHƠN
Về nghề báo, chắc không cần giới thiệu nhiều, ai cũng biết Huỳnh Dũng Nhân là một cây bút phóng sự trứ danh suốt thập niên 90 của thế kỷ trước. Đến hôm nay, những phóng sự của Huỳnh Dũng Nhân được in lại thành các tập sách “Ăn Tết trong rừng chó sói”, “Ký sự xuyên Việt”, “Tôi đi bán tôi” đều vẫn còn sức chịu đựng với thời gian khắc nghiệt. Phương pháp Huỳnh Dũng Nhân ứng dụng văn chương vào báo chí, đã chứng tỏ được hiệu quả nhất định. Thế nhưng, Huỳnh Dũng Nhân vừa in một tập thơ “Dã quỳ tím” do NXB Trẻ ấn hành, khiến không ít người ngạc nhiên.
Huỳnh Dũng Nhân thừa hiểu có thể thơ mình sẽ gây… sốc cho độc giả, nên chân thành tự thú: “Có người khi đọc thơ tôi, bảo là thơ tôi hiền lành, đèm đẹp. Có người khi đọc thơ tôi, bảo: không biết tôi làm thơ tự lúc nào. Có người lại nói tôi làm báo, viết phóng sự, viết văn, đi dạy, thì ai cũng biết, nhưng làm thơ thì mới thấy, còn lạ lắm. Lại có người la ầm lên hoặc cười đầy bí hiểm: Ông mà cũng làm thơ à? Vì những lẽ đó mà tôi muốn in tập thơ này”
“Dã quỳ tím” ngót nghét 100 trang, như một cuộc tổng kết nho nhỏ cho hành trình hơn 30 năm “thỉnh thoảng thấy cuộc đời này thi vị” của Huỳnh Dũng Nhân. Sự thi vị ấy bắt đầu từ ánh mắt quan sát cảnh vật “phố tôi nằm nghiêng/ và mặt trời đi qua không mệt” đến thái độ thảng thốt riêng tư “muôn lần đến vạn lần đi/ buồn như bóng nắng mỗi khi xế chiều/ bây giờ gần cạn tuổi yêu/ tôi thắp ký ức trong veo nhớ tình”. Còn hành trình ấy cho thấy một gã đàn ông cũng hơi lãng mạn “viên gạch cũ mòn chân ngàn lữ khách/ lá cỏ nào từng in dấu em qua”, cũng hơi đa đoan “rồi mình xa hai đứa hai miền/ gửi lời thơ nhờ mặt trăng giữ hộ/ hoa lim bay cho lòng bớt nhớ”, cũng hơi dan díu “đêm chia tay trong vườn cây gió lặng/ sóng ở đâu cứ dào dạt trong lòng” và lắm phen cũng hơi lụy tình “chẳng ai gọi bỗng cứ ơi một tiếng/ ngoảnh lại buồn chẳng thấy em đâu/ chỉ thấy tách trà cô đơn khung cửa/ hương thơm bay quyện mây trắng ngang đầu”
Thơ Huỳnh Dũng Nhân tuân thủ vần điệu truyền thống. Trái tim “người cũng đã heo may” có những nhịp đập khá tinh tế, và bật ra những câu thơ thi sĩ đích thực, như “đốt lên đống lửa phiêu diêu/ muôn tàn lửa cháy bấy nhiêu môi hồng” hoặc như “khăn phiêu mời một dải sông/ giao duyên Cò Mị rượu nồng giọt khuya”. Tuy nhiên, thế mạnh của một nhà báo biết làm thơ và chịu làm thơ, không hẳn nằm hoàn toàn ở phút giây bất chợt trưa mây trắng hay khoảnh khắc lỡ làng chiều sương giăng. Trong một xã hội biến chuyển không ngừng, những người trực tiếp sống giữa dòng chảy thời cuộc như Huỳnh Dũng Nhân dễ dàng nghe được những dư chấn của tâm hồn con người. Và Huỳnh Dũng Nhân đã thực sự nhập hứng “có một kẻ đứng dang tay giữa phố/ mắt nhắm nghiền để nhớ những yêu thương/ những cay đắng và trò đời vụn vặt/ trời xanh nào thổi hết ưu phiền”.
Vì nhận ra “rất nhiều hoa đẹp ở những nơi cộc cằn”, Huỳnh Dũng Nhân có được những câu thơ lay động kẻ tri âm. Đó là trách nhiệm trước mất mát của bản thân để “Viết cho con” thành thật “một chữ ký chia ly là mẹ cha có lỗi/ khi buông tay con bơi giữa dòng đời/ quãng đường mới rồi có khi bớt lạ/ vẫn nhớ nhà thương con lắm con ơi”. Đó là trách nhiệm trước tổn thương của cộng đồng để thắp lên “Ngọn nến” trắc ẩn “Vĩnh Long, Cần Thơ/ mai này ai đi qua chiếc cầu này/ sẽ thấy cây cầu vắt ngang sông lừng lững/ có nhớ các anh chôn tuổi trẻ dưới dầm cầu nhịp 14,15/ tôi thắp lên ngọn nến… tôi thắp lên ngọn nến/ bất lực nhìn ngòi bút của mình/ không viết được gì/ khi máu chảy xuống dòng sông”.
Trong 50 bài thơ của “Dã quỳ tím”, bài thơ dài nhất cũng là bài thơ mang dấu vết Huỳnh Dũng Nhân rõ nhất có tên gọi “Gửi Hà Nội ngàn năm của tôi”. Bài thơ khoảng 1200 chữ, nếu trải ra kiểu văn xuôi thì trở thành một tản văn trữ tình và sắc sảo về mảnh đất Thăng Long nhân dịp đại lễ. Chất thơ và chất báo cùng hiện diện bằng nét chấm phá sinh động “tìm mãi Hà Nội mà chỉ thấy đèn hoa/ Cụ Rùa suy tư gì dưới đáy hồ chói lòa đèn giữa mùa mưa mà thiếu điện” và băn khoăn không dễ lý giải “nhà nhà vút cao bê tông lạnh lùng chữ tây tàu xa lạ/ cô gái phố cổ xinh như hoa nhưng lạnh ngắt nụ cười/ hay Hà Nội chỉ còn đẹp hoài niệm thôi” để rồi lắng lại thổn thức “tôi thật lòng không muốn chia sẻ với em một Hà Nội của tôi/ khi Phủ Tây Hồ giờ bán buôn cũng theo qui hoạch/ ông đồ chữ nho ngồi chìm sau những hàng bún ốc/ những tờ bạc vẫn phải trả cho sự ngơ ngẩn phố phường”.
Khi chứng kiến trên xứ sở mình vẫn còn nơi nọ nơi kia khốn khó và bất hạnh bủa vây, Huỳnh Dũng Nhân viết được một câu thơ thú vị “cánh rừng nhờ truyền thuyết khỏi vô danh”. Nhại theo cách nói ấy, để kết luận về “Dã quỳ tím” rằng: chữ nghĩa nhờ rung cảm đã thành thơ!
Sài Gòn, 7-2011
LTN
Huỳnh Dũng Nhân thừa hiểu có thể thơ mình sẽ gây… sốc cho độc giả, nên chân thành tự thú: “Có người khi đọc thơ tôi, bảo là thơ tôi hiền lành, đèm đẹp. Có người khi đọc thơ tôi, bảo: không biết tôi làm thơ tự lúc nào. Có người lại nói tôi làm báo, viết phóng sự, viết văn, đi dạy, thì ai cũng biết, nhưng làm thơ thì mới thấy, còn lạ lắm. Lại có người la ầm lên hoặc cười đầy bí hiểm: Ông mà cũng làm thơ à? Vì những lẽ đó mà tôi muốn in tập thơ này”
“Dã quỳ tím” ngót nghét 100 trang, như một cuộc tổng kết nho nhỏ cho hành trình hơn 30 năm “thỉnh thoảng thấy cuộc đời này thi vị” của Huỳnh Dũng Nhân. Sự thi vị ấy bắt đầu từ ánh mắt quan sát cảnh vật “phố tôi nằm nghiêng/ và mặt trời đi qua không mệt” đến thái độ thảng thốt riêng tư “muôn lần đến vạn lần đi/ buồn như bóng nắng mỗi khi xế chiều/ bây giờ gần cạn tuổi yêu/ tôi thắp ký ức trong veo nhớ tình”. Còn hành trình ấy cho thấy một gã đàn ông cũng hơi lãng mạn “viên gạch cũ mòn chân ngàn lữ khách/ lá cỏ nào từng in dấu em qua”, cũng hơi đa đoan “rồi mình xa hai đứa hai miền/ gửi lời thơ nhờ mặt trăng giữ hộ/ hoa lim bay cho lòng bớt nhớ”, cũng hơi dan díu “đêm chia tay trong vườn cây gió lặng/ sóng ở đâu cứ dào dạt trong lòng” và lắm phen cũng hơi lụy tình “chẳng ai gọi bỗng cứ ơi một tiếng/ ngoảnh lại buồn chẳng thấy em đâu/ chỉ thấy tách trà cô đơn khung cửa/ hương thơm bay quyện mây trắng ngang đầu”
Thơ Huỳnh Dũng Nhân tuân thủ vần điệu truyền thống. Trái tim “người cũng đã heo may” có những nhịp đập khá tinh tế, và bật ra những câu thơ thi sĩ đích thực, như “đốt lên đống lửa phiêu diêu/ muôn tàn lửa cháy bấy nhiêu môi hồng” hoặc như “khăn phiêu mời một dải sông/ giao duyên Cò Mị rượu nồng giọt khuya”. Tuy nhiên, thế mạnh của một nhà báo biết làm thơ và chịu làm thơ, không hẳn nằm hoàn toàn ở phút giây bất chợt trưa mây trắng hay khoảnh khắc lỡ làng chiều sương giăng. Trong một xã hội biến chuyển không ngừng, những người trực tiếp sống giữa dòng chảy thời cuộc như Huỳnh Dũng Nhân dễ dàng nghe được những dư chấn của tâm hồn con người. Và Huỳnh Dũng Nhân đã thực sự nhập hứng “có một kẻ đứng dang tay giữa phố/ mắt nhắm nghiền để nhớ những yêu thương/ những cay đắng và trò đời vụn vặt/ trời xanh nào thổi hết ưu phiền”.
Vì nhận ra “rất nhiều hoa đẹp ở những nơi cộc cằn”, Huỳnh Dũng Nhân có được những câu thơ lay động kẻ tri âm. Đó là trách nhiệm trước mất mát của bản thân để “Viết cho con” thành thật “một chữ ký chia ly là mẹ cha có lỗi/ khi buông tay con bơi giữa dòng đời/ quãng đường mới rồi có khi bớt lạ/ vẫn nhớ nhà thương con lắm con ơi”. Đó là trách nhiệm trước tổn thương của cộng đồng để thắp lên “Ngọn nến” trắc ẩn “Vĩnh Long, Cần Thơ/ mai này ai đi qua chiếc cầu này/ sẽ thấy cây cầu vắt ngang sông lừng lững/ có nhớ các anh chôn tuổi trẻ dưới dầm cầu nhịp 14,15/ tôi thắp lên ngọn nến… tôi thắp lên ngọn nến/ bất lực nhìn ngòi bút của mình/ không viết được gì/ khi máu chảy xuống dòng sông”.
Trong 50 bài thơ của “Dã quỳ tím”, bài thơ dài nhất cũng là bài thơ mang dấu vết Huỳnh Dũng Nhân rõ nhất có tên gọi “Gửi Hà Nội ngàn năm của tôi”. Bài thơ khoảng 1200 chữ, nếu trải ra kiểu văn xuôi thì trở thành một tản văn trữ tình và sắc sảo về mảnh đất Thăng Long nhân dịp đại lễ. Chất thơ và chất báo cùng hiện diện bằng nét chấm phá sinh động “tìm mãi Hà Nội mà chỉ thấy đèn hoa/ Cụ Rùa suy tư gì dưới đáy hồ chói lòa đèn giữa mùa mưa mà thiếu điện” và băn khoăn không dễ lý giải “nhà nhà vút cao bê tông lạnh lùng chữ tây tàu xa lạ/ cô gái phố cổ xinh như hoa nhưng lạnh ngắt nụ cười/ hay Hà Nội chỉ còn đẹp hoài niệm thôi” để rồi lắng lại thổn thức “tôi thật lòng không muốn chia sẻ với em một Hà Nội của tôi/ khi Phủ Tây Hồ giờ bán buôn cũng theo qui hoạch/ ông đồ chữ nho ngồi chìm sau những hàng bún ốc/ những tờ bạc vẫn phải trả cho sự ngơ ngẩn phố phường”.
Khi chứng kiến trên xứ sở mình vẫn còn nơi nọ nơi kia khốn khó và bất hạnh bủa vây, Huỳnh Dũng Nhân viết được một câu thơ thú vị “cánh rừng nhờ truyền thuyết khỏi vô danh”. Nhại theo cách nói ấy, để kết luận về “Dã quỳ tím” rằng: chữ nghĩa nhờ rung cảm đã thành thơ!
Sài Gòn, 7-2011
LTN
-----
Chuyên mục: Dã quỳ tím & những tri âm - Hoi Nha Van Thanh Pho Ho Chi Minh:
19.7.2011-12:30
Một cái “tôi” khát cháy!
PHAN TÙNG SƠN
“Tựa đề của tập thơ “Dã quỳ tím” như là một phép ẩn dụ của ngôn từ để khẳng định cái lõi thuỷ chung nằm trong cái vỏ ngỡ như hoang dã, vô phương kiểm soát”.
Mỗi tác giả đều có một duyên cớ đến với thơ. Và dường như cái cớ để Huỳnh Dũng Nhân đến với thơ là... không có cớ gì cả. “Sự vô cớ nào lại sáng suốt đâu em” (Hoa lim tháng sáu). Sự vô cớ bao trùm lên cái cớ có chủ định, sự sáng suốt của lý trí giấu sau nỗi trào dâng khát khao vượt khỏi tầm kiểm soát của cảm xúc “Được thở dập dồn trong cơn khát cháy”... đã làm nên cái “tôi” Huỳnh Dũng Nhân trong thơ - một cái “tôi” khát cháy.
Từng được coi là cây phóng sự số một của làng báo Việt Nam ở thập niên tám mươi, chín mươi, thế kỷ hai mươi; nhà báo Huỳnh Dũng Nhân đã tạo nên một bước ngoặt, mang phong cách đặc trưng trong tiến trình phát triển, đổi mới phóng sự báo chí. Cho đến bây giờ, dù phóng sự báo chí đương đại đã có những cách tân, tiếp biến về hình thức theo xu hướng mới, nhưng phong cách “văn trong báo, báo chứa văn” của Huỳnh Dũng Nhân thì vẫn nguyên giá trị.
Bây giờ, Huỳnh Dũng Nhân ít viết báo. Anh chuyển sang làm quản lý, giảng dạy (hiện anh là Phó Chủ tịch Hội Nhà báo TP.Hồ Chí Minh, Tổng Biên tập tạp chí Nghề báo, giảng viên bộ môn phóng sự báo chí của Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh). Bạn đọc, đồng nghiệp dễ dàng nhận ra sự liên kết, giao hòa của một Huỳnh Dũng Nhân phóng sự với một Huỳnh Dũng Nhân thơ, khi đọc “Dã quỳ tím”. “Thứ đơn giản nhất mà khó nhất/ Tôi đi tìm tôi” (Tuyên ngôn). Trước đó, anh đã có tập phóng sự “Tôi đi bán tôi” gây ấn tượng mạnh trong báo giới.
Sau những lăn lộn, quăng quật bản thân vào những trang báo, Huỳnh Dũng Nhân để dành cho thơ những gì tinh tuý nhất, thăng hoa nhất của một quãng đời xông xáo và sự góp nhặt, trải nghiệm của nghiệp báo. Và vì thế, thơ đến với anh như một lẽ tự nhiên.
Vẫn là những đề tài quen thuộc: con đường, góc phố, màu hoa, làn gió heo may, cơn mưa phùn, giá lạnh mùa đông... hay người thân, bè bạn, mối tình đầu, ký ức tuổi hoa...vv, như đã từng xuất hiện trong các tác phẩm báo chí của anh trước đây, nhưng những hình ảnh ấy khi vào thơ chỉ là cái cớ, là phương tiện để anh vin vào đó mà chiêm nghiệm, mà biểu đạt cảm xúc bằng một cái “tôi” khó lẫn. “Cánh đồng cằn khát nửa cơn mưa/ Ta xoè tay hứng một trời thơ bé” (Gửi heo may).
Dù đôi khi cũng muốn bung phá và nổi loạn “Một mình một mâm tôi uống tôi” (Không còn ai trên núi), “Em là sư tử hay ta là sư tử/ Ta bị ảo giác tràn ngập mưa phùn” (Mưa phùn)..., nhưng Huỳnh Dũng Nhân là người hướng nội. Thơ anh không cầu kỳ về ngôn ngữ, không ma mị về ý tưởng. Nhưng như thế không có nghĩa là anh cũ. Anh chủ trương làm mới thơ bằng cảm xúc, bằng chiều sâu tâm trạng với một kiểu triết luận đa chiều, chứ không “lòe” bạn đọc bằng hình thức biểu hiện.
Với “Dã quỳ tím”, Huỳnh Dũng Nhân đã bộc lộ một khao khát cháy bỏng với thơ. Mừng cho anh là cánh diều khát cháy ấy vẫn được níu giữ bởi sợi dây của sự điềm tĩnh, để không “một khắc bay lên rồi chúi xuống”. Tựa đề của tập thơ “Dã quỳ tím” như là một phép ẩn dụ của ngôn từ để khẳng định cái lõi thuỷ chung nằm trong cái vỏ ngỡ như hoang dã, vô phương kiểm soát. “Tôi. Đầu, mình, tay chân. Quần áo/ Đứng nhờ lực hút trái đất/ Cố gắng dặn mình đứng thẳng” (Tuyên ngôn).
Ở tuổi “ngũ thập tri thiên mệnh”, với Huỳnh Dũng Nhân, thơ cũng như là sống vậy!
PTS
Từng được coi là cây phóng sự số một của làng báo Việt Nam ở thập niên tám mươi, chín mươi, thế kỷ hai mươi; nhà báo Huỳnh Dũng Nhân đã tạo nên một bước ngoặt, mang phong cách đặc trưng trong tiến trình phát triển, đổi mới phóng sự báo chí. Cho đến bây giờ, dù phóng sự báo chí đương đại đã có những cách tân, tiếp biến về hình thức theo xu hướng mới, nhưng phong cách “văn trong báo, báo chứa văn” của Huỳnh Dũng Nhân thì vẫn nguyên giá trị.
Bây giờ, Huỳnh Dũng Nhân ít viết báo. Anh chuyển sang làm quản lý, giảng dạy (hiện anh là Phó Chủ tịch Hội Nhà báo TP.Hồ Chí Minh, Tổng Biên tập tạp chí Nghề báo, giảng viên bộ môn phóng sự báo chí của Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh). Bạn đọc, đồng nghiệp dễ dàng nhận ra sự liên kết, giao hòa của một Huỳnh Dũng Nhân phóng sự với một Huỳnh Dũng Nhân thơ, khi đọc “Dã quỳ tím”. “Thứ đơn giản nhất mà khó nhất/ Tôi đi tìm tôi” (Tuyên ngôn). Trước đó, anh đã có tập phóng sự “Tôi đi bán tôi” gây ấn tượng mạnh trong báo giới.
Sau những lăn lộn, quăng quật bản thân vào những trang báo, Huỳnh Dũng Nhân để dành cho thơ những gì tinh tuý nhất, thăng hoa nhất của một quãng đời xông xáo và sự góp nhặt, trải nghiệm của nghiệp báo. Và vì thế, thơ đến với anh như một lẽ tự nhiên.
Vẫn là những đề tài quen thuộc: con đường, góc phố, màu hoa, làn gió heo may, cơn mưa phùn, giá lạnh mùa đông... hay người thân, bè bạn, mối tình đầu, ký ức tuổi hoa...vv, như đã từng xuất hiện trong các tác phẩm báo chí của anh trước đây, nhưng những hình ảnh ấy khi vào thơ chỉ là cái cớ, là phương tiện để anh vin vào đó mà chiêm nghiệm, mà biểu đạt cảm xúc bằng một cái “tôi” khó lẫn. “Cánh đồng cằn khát nửa cơn mưa/ Ta xoè tay hứng một trời thơ bé” (Gửi heo may).
Dù đôi khi cũng muốn bung phá và nổi loạn “Một mình một mâm tôi uống tôi” (Không còn ai trên núi), “Em là sư tử hay ta là sư tử/ Ta bị ảo giác tràn ngập mưa phùn” (Mưa phùn)..., nhưng Huỳnh Dũng Nhân là người hướng nội. Thơ anh không cầu kỳ về ngôn ngữ, không ma mị về ý tưởng. Nhưng như thế không có nghĩa là anh cũ. Anh chủ trương làm mới thơ bằng cảm xúc, bằng chiều sâu tâm trạng với một kiểu triết luận đa chiều, chứ không “lòe” bạn đọc bằng hình thức biểu hiện.
Với “Dã quỳ tím”, Huỳnh Dũng Nhân đã bộc lộ một khao khát cháy bỏng với thơ. Mừng cho anh là cánh diều khát cháy ấy vẫn được níu giữ bởi sợi dây của sự điềm tĩnh, để không “một khắc bay lên rồi chúi xuống”. Tựa đề của tập thơ “Dã quỳ tím” như là một phép ẩn dụ của ngôn từ để khẳng định cái lõi thuỷ chung nằm trong cái vỏ ngỡ như hoang dã, vô phương kiểm soát. “Tôi. Đầu, mình, tay chân. Quần áo/ Đứng nhờ lực hút trái đất/ Cố gắng dặn mình đứng thẳng” (Tuyên ngôn).
Ở tuổi “ngũ thập tri thiên mệnh”, với Huỳnh Dũng Nhân, thơ cũng như là sống vậy!
PTS
-----
Thể thao & Văn hóa:
Thứ Ba, 12/07/2011 12:51
Nhà báo Huỳnh Dũng Nhân trở thành… nhà thơ trẻ
(TT&VH) - Ở ta có diễn viên xiếc - hài - ảo thuật Mạc Can (sinh năm 1945) đến gần cuối đời bỗng dưng trở thành “nhà văn trẻ”. Mới đây, nhà báo Huỳnh Dũng Nhân (sinh năm 1955) cũng bỗng dưng trở thành “nhà thơ trẻ” khi ra mắt tập thơ đầu tiên: Dã quỳ tím…
Nhà báo Huỳnh Dũng Nhân mới in tập thơ mang tên Dã quỳ tím (NXB Trẻ) khi đang ở tuổi 56. Ông tặng thơ và nói vui với bạn bè: “Tôi xin tặng thơ của nhà thơ trẻ Huỳnh Dũng Nhân”. Sở dĩ ông nói mình là “nhà thơ trẻ” vì nhiều người biết đến Huỳnh Dũng Nhân như một nhà báo kỳ cựu. Ông hiện là Phó Chủ tịch Hội Nhà báo TP.HCM kiêm Tổng Biên tập tạp chí Nghề báo và là giảng viên thính giảng môn Phóng sự ở khoa Báo chí và Truyền thông - ĐH KHXH&NV, TP.HCM.
Đến nay, Huỳnh Dũng Nhân đã trình làng khoảng 15 đầu sách văn học, phóng sự, tản văn, giáo trình nghiệp vụ môn phóng sự và nhận khoảng 20 giải thưởng văn học, báo chí. Nhưng in một tập thơ như Dã quỳ tím là việc đầu tiên trong đời của “nhà thơ trẻ” 56 tuổi này.
Huỳnh Dũng Nhân “tự thú” về việc “in thơ”: “Có người khi đọc thơ tôi, bảo là thơ tôi hiền lành, đèm đẹp. Có người khi đọc thơ tôi bảo: Không biết tôi làm thơ tự lúc nào. Có người lại nói tôi làm báo, viết phóng sự, viết văn, đi dạy... thì ai cũng biết, nhưng làm thơ thì mới thấy, còn lạ lắm. Lại có người la ầm lên hoặc cười đầy bí hiểm: Ông mà cũng làm thơ à? Vì những lẽ đó mà tôi muốn in tập thơ này”.
Còn đây là “tự thú” về việc “mần thơ”: “Tôi chả biết nói thế nào về thơ tôi cả. Chỉ biết là khi không viết được văn, không viết được báo, không vẽ được, không hát múa được, không la lên với thiên hạ rằng tôi yêu, tôi buồn, tôi nhớ, tôi thương... được, thì tôi muốn làm thơ. Thế thôi. Như một chút riêng tư. Như một chút gì để tặng mọi người. Kỷ niệm một lần được sống trên đời”. Nói thì nói thế, nhưng thơ Huỳnh Dũng Nhân qua góc nhìn của nghề báo vẫn đầy tính thời sự. Ngày 8/6/1979, Huỳnh Dũng Nhân viết về Con đường Thi Sách nằm gần sông Sài Gòn (Q.1, TP.HCM) nơi ông ở: ... Bộ đội Hải quân đi qua/AK nối dài hàng một/Tiếng còi tàu chào dõng dạc/Tất cả phố tôi đều nghe... Tiền tuyến nay thành hậu phương/Vẫn tự coi là tiền tuyến/Tiếng súng diệt quân bành trướng/Tất cả phố tôi đều nghe... Bài thơ Gửi Hà Nội ngàn năm của tôi viết năm 2010 là bài dài nhất với nhiều nỗi niềm nhất trong Dã quỳ tím: Thế là tôi cũng có lúc lang thang vào cái ngày Hà Nội ngàn năm tuổi/Không nắng không mưa không kỷ niệm đong đầy/Tôi chỉ có tôi những ngày ngơ ngác cũ/Cứ thương mình sao đơn chiếc nơi đây.../Thương miền Trung mùa này trắng xóa dưới cánh bay/Lật đò, trôi xe, tắc đường, mất tích/Em gái miền Trung vẫn vọng nhìn Thủ đô với yêu thương tha thiết/Hà Nội mùa này đẹp lắm phải không?
Với sinh viên khoa Báo chí, Huỳnh Dũng Nhân là một “ông thầy” nghệ sĩ và giỏi nghề. Với nghề báo, Huỳnh Dũng Nhân đã chứng minh năng lực qua hàng chục năm cầm bút. Còn với thơ, “nhà thơ trẻ” Huỳnh Dũng Nhân có... biết làm thơ không? Câu hỏi này xin dành cho bạn đọc.
“Nhà thơ trẻ” Huỳnh Dũng Nhân |
Đến nay, Huỳnh Dũng Nhân đã trình làng khoảng 15 đầu sách văn học, phóng sự, tản văn, giáo trình nghiệp vụ môn phóng sự và nhận khoảng 20 giải thưởng văn học, báo chí. Nhưng in một tập thơ như Dã quỳ tím là việc đầu tiên trong đời của “nhà thơ trẻ” 56 tuổi này.
Huỳnh Dũng Nhân “tự thú” về việc “in thơ”: “Có người khi đọc thơ tôi, bảo là thơ tôi hiền lành, đèm đẹp. Có người khi đọc thơ tôi bảo: Không biết tôi làm thơ tự lúc nào. Có người lại nói tôi làm báo, viết phóng sự, viết văn, đi dạy... thì ai cũng biết, nhưng làm thơ thì mới thấy, còn lạ lắm. Lại có người la ầm lên hoặc cười đầy bí hiểm: Ông mà cũng làm thơ à? Vì những lẽ đó mà tôi muốn in tập thơ này”.
Còn đây là “tự thú” về việc “mần thơ”: “Tôi chả biết nói thế nào về thơ tôi cả. Chỉ biết là khi không viết được văn, không viết được báo, không vẽ được, không hát múa được, không la lên với thiên hạ rằng tôi yêu, tôi buồn, tôi nhớ, tôi thương... được, thì tôi muốn làm thơ. Thế thôi. Như một chút riêng tư. Như một chút gì để tặng mọi người. Kỷ niệm một lần được sống trên đời”. Nói thì nói thế, nhưng thơ Huỳnh Dũng Nhân qua góc nhìn của nghề báo vẫn đầy tính thời sự. Ngày 8/6/1979, Huỳnh Dũng Nhân viết về Con đường Thi Sách nằm gần sông Sài Gòn (Q.1, TP.HCM) nơi ông ở: ... Bộ đội Hải quân đi qua/AK nối dài hàng một/Tiếng còi tàu chào dõng dạc/Tất cả phố tôi đều nghe... Tiền tuyến nay thành hậu phương/Vẫn tự coi là tiền tuyến/Tiếng súng diệt quân bành trướng/Tất cả phố tôi đều nghe... Bài thơ Gửi Hà Nội ngàn năm của tôi viết năm 2010 là bài dài nhất với nhiều nỗi niềm nhất trong Dã quỳ tím: Thế là tôi cũng có lúc lang thang vào cái ngày Hà Nội ngàn năm tuổi/Không nắng không mưa không kỷ niệm đong đầy/Tôi chỉ có tôi những ngày ngơ ngác cũ/Cứ thương mình sao đơn chiếc nơi đây.../Thương miền Trung mùa này trắng xóa dưới cánh bay/Lật đò, trôi xe, tắc đường, mất tích/Em gái miền Trung vẫn vọng nhìn Thủ đô với yêu thương tha thiết/Hà Nội mùa này đẹp lắm phải không?
Với sinh viên khoa Báo chí, Huỳnh Dũng Nhân là một “ông thầy” nghệ sĩ và giỏi nghề. Với nghề báo, Huỳnh Dũng Nhân đã chứng minh năng lực qua hàng chục năm cầm bút. Còn với thơ, “nhà thơ trẻ” Huỳnh Dũng Nhân có... biết làm thơ không? Câu hỏi này xin dành cho bạn đọc.
Hoàng Nhân
-----
Thanh Niên Online:
22/07/2011 16:22
Nhà báo già thành nhà thơ trẻ
Trong làng báo TP.HCM, cái tên Huỳnh Dũng Nhân vốn quá quen thuộc, bởi anh vừa là Phó chủ tịch Hội Nhà báo TP.HCM vừa là Tổng biên tập Tạp chí Nghề báo, nhưng trong làng thơ thì tên anh... lạ hoắc!
Cho nên khi NXB Trẻ tung ra tập thơ Dã quỳ tím của Huỳnh Dũng Nhân, nhiều người tò mò không biết ông này có… làm báo trên thơ không? Thì đây: “Anh có nói gì đâu/Mà mắt em cứ như đầy ý hỏi/Mà môi em cứ thì thầm bối rối/Anh có nói gì đâu... Anh đi cửa trước/Em trốn cửa sau/Nhưng đôi mắt vẫn gặp nhau vồi vội/Điều rất đẹp vẫn là điều chưa nói/Bởi nói ra sợ chẳng đủ ý lời...” (Một chút riêng tư) - nghe... xao xuyến quá đi chứ! Tên tập thơ là Dã quỳ tím nhưng giở ra thì thấy đủ thứ hoa: hoa ban, hoa sen, hoa lim rồi... môi hoa và trà hoa - chứng tỏ ông cũng rất “thất thường” như lời thơ tự thú: “Tôi. Vui buồn thất thường tùy bản tin buổi sáng/Lo âu thiên tai/Sợ mất lòng người khác/Sợ vi phạm giao thông/Sợ cả tổ dân phố/Đôi khi tôi sợ tôi/Một thằng người bé nhỏ…”(Tuyên ngôn). Xin chúc mừng “nhà thơ trẻ”!
Cho nên khi NXB Trẻ tung ra tập thơ Dã quỳ tím của Huỳnh Dũng Nhân, nhiều người tò mò không biết ông này có… làm báo trên thơ không? Thì đây: “Anh có nói gì đâu/Mà mắt em cứ như đầy ý hỏi/Mà môi em cứ thì thầm bối rối/Anh có nói gì đâu... Anh đi cửa trước/Em trốn cửa sau/Nhưng đôi mắt vẫn gặp nhau vồi vội/Điều rất đẹp vẫn là điều chưa nói/Bởi nói ra sợ chẳng đủ ý lời...” (Một chút riêng tư) - nghe... xao xuyến quá đi chứ! Tên tập thơ là Dã quỳ tím nhưng giở ra thì thấy đủ thứ hoa: hoa ban, hoa sen, hoa lim rồi... môi hoa và trà hoa - chứng tỏ ông cũng rất “thất thường” như lời thơ tự thú: “Tôi. Vui buồn thất thường tùy bản tin buổi sáng/Lo âu thiên tai/Sợ mất lòng người khác/Sợ vi phạm giao thông/Sợ cả tổ dân phố/Đôi khi tôi sợ tôi/Một thằng người bé nhỏ…”(Tuyên ngôn). Xin chúc mừng “nhà thơ trẻ”!
H.Đ.N
-----
SGGP Online - Thơ:
Thứ ba, 19/07/2011, 23:35 (GMT+7)
Tập thơ "Lãng mạn một dã quỳ tím"
Dã quỳ là một loài cúc dại mọc hoang dã trên vùng cao nguyên. Mỏng manh cánh nhỏ chập chờn trong gió buốt, trong nắng lạnh như bướm vẫy lượn giữa mây ngàn khiến người lãng du gợn lòng khắc khoải.
Nhà báo Huỳnh Dũng Nhân |
Nhưng với Nhà báo Huỳnh Dũng Nhân, dã quỳ không vàng mà lại… tím!
Có gì đó ẩn trong màu chung thủy này?
Có phải đó là nỗi nhớ về một con đường, mà nơi ấy đêm xuống thù thì lá me
ánh trăng phơi vàng dưới đất…
Về một con dốc, mà nơi ấy cắt ngang lưng chừng cửa rộng
cả rặng cây cùng chạy nghiêng…
Về một Hà Nội xa, mà ở đó đường nhỏ lắm đi một mình thôi
có ai chờ ai phía trước không…
Hà Nội giăng giăng mưa
… cây sấu chưa hoa, hoa sữa chưa hương
…thời gian đi một chiều rồi hết…
Về một vùng biển thênh thang là nơi bao người khách dừng mua kỷ niệm
dù không chọn thời gian cho nỗi nhớ
ta vẫn dành khoảnh khắc ấy cho nhau…
Lời tự thú đầu tiên của Huỳnh Dũng Nhân như một sự rào đón dư luận (tôi chả biết nói thế nào về thơ tôi cả, vì nó như một chút riêng tư, một chút gì để tặng người…/ có người bảo thơ tôi hiền lành, đèm đẹp…).
Nhưng khi đọc xong tập thơ “Dã quỳ tím” của anh, với tôi, thơ Huỳnh Dũng Nhân lãng mạn, là tiếng nói trong veo của cảm xúc thật thà, đôi khi câu thơ bất chợt làm người đọc nghẹn vô cớ.
Với “Dã quỳ tím”, đây như một nhật ký bằng thơ của Huỳnh Dũng Nhân, bởi nó ghi lại chuyện xa, chuyện gần, chuyện mới lần đầu yêu và cả chuyện say để nhìn hoa dã quỳ vàng chuyển tím. Bởi nó ghi lại từng địa danh, vùng đất anh đã đi qua: Hà Nội, Điện Biên, Sa Pa, Đại Lải, Đà Lạt, Trị An, Đắc Nông, Dầu Tiếng, Vũng Tàu, Bến Tre… Bởi nó là giọt nước mắt trào ngược vào trong của một người cha khi chưa quen với số nhà mới…
P.N.Thường Đoan
TTST BND: Mời xem lại Kỳ 1 "Dã quỳ tím & những tri âm"
23/7/11
Dã quỳ tím & những tri âm
TTST BND: Giới thiệu cùng các bạn loạt bài trên trang HNVTPHCM, gồm 3 bài trong chủ đề "Dã quỳ tím & những tri âm", của các tác giả Bùi Chí Vinh, Vũ Thanh Hoa, Duy Khanh - cùng về một sự kiện: Huỳnh Dũng Nhân xuất bản tập thơ đầu tay.
Hoi Nha Van Thanh Pho Ho Chi Minh:
19.7.2011-12:30
Tôi có cách riêng đọc thơ Huỳnh Dũng Nhân. Đọc không phải để chia sẻ với anh chàng yêu hoa tình cờ phát giác ra vẻ đẹp của DÃ QUỲ TÍM (tên tập thơ đầu tay của Huỳnh Dũng Nhân) mà đọc theo cách của một gã giang hồ từng trải đang quan sát cuộc hành trình của anh chàng “hành phương Nam” rất muốn làm những chuyến giang hồ.
Chớ gì nữa, thưở ấy chúng ta còn trẻ lắm phải không Nhân? Năm 1975 thuở bạn từ phương Bắc hành phương Nam tuổi chỉ mới đôi mươi còn ở Sài Gòn thì tôi 21 tuổi. Thuở ấy tuổi chúng ta đẹp đến mức mọi núi non cản trở trước mặt đều trở nên bằng phẳng dưới gót giày. Ấy thế mà, Nhân đã dự báo trước quá trình làm người của thế hệ mình đầy gập ghềnh bất trắc. Ngay ở trang thứ 7 của tập thơ, bài thơ TÔI của Nhân đã tiết lộ ít nhiều về điều đó:
Tôi luôn luôn ngọ nguậy
Trên trái đất của tôi
Chiếc ghế tôi quá chật
Khi tựa cả bầu trời
Đường tôi đi quá hẹp
Rơi rụng hết nụ cười
Nơi tôi đến xa quá
Chỉ còn lại mình tôi
Sự tiết lộ theo thời gian đã trở nên công khai, sòng phẳng hơn. Khái niệm sòng phẳng thẳng thắn đã tạo nên “cái tôi” đầy nhân tính khi Nhân tổng kết thân phận mình ở bài thơ TUYÊN NGÔN cuối tập thơ. Xin lược trích vài đoạn:
Tôi. Đầu, mình, tay chân. Quần áo
Đứng nhờ lực hút trái đất
Cố gắng dặn mình đứng thẳng
…
Chẳng cần nịnh nọt và cơ hội
Chẳng cần tìm cái thang cho mình
Đi, yêu và viết. Cứ thế
Cố gắng đừng đánh mất niềm tin
Thứ đơn giản mà khó nhất
Tôi đi tìm tôi
Vâng, đó chính là hai trích đoạn thơ mở ra và khép lại của một cá thể suốt hơn 30 năm đi tìm bản ngã chính mình. Huỳnh Dũng Nhân vừa hào hứng vừa thống khoái mở màn cuộc hành trình chân thiện mỹ để cuối cùng tị nạn êm đềm trong cõi thơ như vậy. Nhẹ lòng, nhẹ gánh tang bồng như lời bạn TỰ THÚ:
Tôi chả biết nói thế nào về thơ tôi cả. Chỉ biết là khi không viết được văn, không viết được báo, không vẽ được, không hát không múa được, không la lên với thiên hạ rằng tôi yêu, tôi buồn, tôi nhớ, tôi thương được thì… tôi muốn làm thơ.
Muốn làm thơ ư ? Hơn ai hết Nhân thừa hiểu làm thơ không phải dễ, nhất là làm thơ tình. Khó như là MỘT CHÚT RIÊNG TƯ vậy. Trong bài thơ trên Nhân đã rình rập một cô gái miền sông nước trong cảm giác của “ăn vụng, nhìn lén, nhớ trộm, yêu thầm” thế mà trái tim cuối cùng lại đập quá vụng về:
Đến ngày về có nói được gì đâu
Đến ngày về vẫn chỉ nhớ thầm nhau
Tội nghiệp anh chàng đa cảm mà tôi quen từ hồi tóc đen cho tới lúc tóc muối tiêu lốm đốm trên đầu có trái tim mãi mãi vụng về hờn dỗi hết sức trẻ con. Các bạn thử kiểm tra một trích đoạn bài thơ NHỚ TÌNH thử xem:
Muôn lần đến vạn lần đi
Buồn như bóng nắng mỗi khi xế chiều
Bây giờ gần cạn tuổi yêu
Tôi thắp ký ức trong veo nhớ tình
Xong. Bây giờ gạt qua một bên những khát vọng thân phận, những nỗi niềm bướm hoa của anh chàng quanh năm “mới lớn”, tôi xin phép trở lại cái cách mà tôi quan sát những cuộc phiêu lưu của Huỳnh Dũng Nhân bằng kinh nghiệm giang hồ. Bằng kinh nghiệm của một kẻ va chạm quá nhiều với đời sống, tôi thấy Nhân mỗi lần vấp ngã (trong tình yêu trong gia đình trong nghề nghiệp) là bạn lại đứng bật dậy và thăng hoa. Không tin hãy nhìn những cuộc viễn du của Nhân xem, Nhân hóa thân thành thi sĩ thực sự khi gởi hồn xâm nhập vào những vùng đất Tây Nguyên và Tây Bắc. Ở đó trước sơn lam chướng khí, trước non nước hữu tình, bạn đã khám phá ra vẻ đẹp tuyệt đối khi người nữ có mặt. Người nữ trong thơ Nhân lúc ấy là nét chấm phá linh hồn làm nên bức tranh đất nước quê hương. Tôi có thể liệt kê những bài thơ mang tựa GỬI HEO MAY, HOA BAN, NÀY EM LAI CHÂU, SAPA MƯA, MÔI HOA… như những họa phẩm hoàn chỉnh cả tứ thơ lẫn vần điệu:
Bao giờ gặp lại Sapa nhỉ
Mình lượn vòng quanh dốc nhà thờ
Để nép vào nhau Sapa lạnh
Hôn nhau ấm cả Sapa mưa
Và một đoạn khác:
Rượu cần em chúm môi hoa
Tôi đi nghiêng ngã như là bùa yêu
Đốt lên đống lửa phiêu diêu
Muôn tàn lửa cháy bấy nhiêu môi hồng
May mắn và cũng hạnh phúc thay, tâm hồn bạn tôi đã bình ổn nhờ cái đẹp mơ hồ mong manh sương khói. Cái đẹp “tình đời” ấy đã giúp chúng ta sau hơn 30 năm vẫn nguyên vẹn tình bằng hữu. Thứ tình bằng hữu của những người đàn ông thông qua thi ca lúc những năm 1975, 1976 tôi la cà đọc thơ cho Bùi Việt Phong, Huỳnh Dũng Nhân, Thái Thăng Long… ở khuôn viên trường đại học Tổng Hợp nơi các bạn theo học. Thứ tình bằng hữu truyền khẩu như lời nhà báo Duy Vượng (đã khuất núi) thường khen Nhân ngoài chuyện giỏi làm báo viết văn còn có năng khiếu… đánh bóng bàn.
Rồi mọi chuyện dâu bể chắc chắn sẽ qua cùng thế sự thăng trầm. Nhưng “quân mạc vấn” vẫn còn ám ảnh Nhân khi bạn tự chát vấn mình qua bài thơ XA XĂM đau nhói:
Thế mà cũng đã tỉnh say
Rượu xưa quán cũ những ngày cạn nhau
Mà thôi trăm thứ đớn đau
Phá cười nhìn xuống chẳng đâu là gì
Thế mà nặng trĩu làm chi
Sao ôm mãi thế, về đi hết rồi
Về đi hết rồi. DÃ QUỲ TÍM cuối cùng cũng nở hoa dù… muộn. Nhân danh một bằng hữu kiêm đồng nghiệp, tôi chúc anh chàng hành phương Nam ngày nào tiếp tục mở cửa vườn mình gặt hái những bông hoa dã quỳ mới nở. Bởi vì thưa bạn hiền, cuối cùng vẫn chỉ có thi ca và nghệ thuật là bóng mát cây đời che chở cho con người bất hạnh. Nó chứng minh cho chân lý vĩnh cửa của Goethe:
“Tất cả lý thuyết đều là màu xám
Mà cây đời thì mãi mãi xanh tươi”
16.7.2011
BCV
-----
“Tôi chả biết nói thế nào về thơ tôi cả . Chỉ biết là khi không viết được văn, không viết được báo, không vẽ được, không hát không múa được, không la lên với thiên hạ rằng tôi yêu, tôi buồn, tôi nhớ, tôi thương…thì tôi muốn làm thơ.
Thế thôi.
Như một chút riêng tư.
Như một chút gì để tặng mọi người.
Kỷ niệm một lần được sống trên đời”
(Tự thú)
Đó là những dòng “tự bạch” của tác giả mở đầu tập thơ, dường như khiêm nhường, lại duờng như có chút khoe về sự “đa nghề” của mình, tôi thấy thú vị ở ý nghĩ Kỷ niệm một lần được sống trên đời, và tôi giở tiếp trang thơ để xem “một lần sống” của Huỳnh Dũng Nhân thế nào…
Đã dặn lòng đừng ngược về quá khứ
Cuối heo may ta nhớ nụ hôn đầu
Mỏi bước hoài dốc cạn đáy ly sâu
Ta ở lại, người đừng đi, ta đợi…
(Gửi heo may)
Và trong dòng chảy bộn bề sống của người đàn ông này, ký ức chưa bao giờ ngủ yên. Tôi nhớ câu châm ngôn nước ngoài: “Điều khó xử của con người là chúng ta vừa yêu lại vừa ghét sự thay đổi.” và Hùynh Dũng Nhân luôn đau đáu với những kỷ niệm, trăn trở giữa đuợc và mất, sự trăn trở rất thơ mà cũng rất thực:
Nhớ người hồi ấy dịu dàng lắm
Mắt ướt như là mới giận ai
Mới hẹn hò đây mà xa quá
Bấm đốt tay thấy tháng năm dài
(Nhớ)
Mùa cũ dịu dàng đời cũ qua mau
Ấu thơ xưa đã về khung trời khác
Ta cũ đến không nhận ra mê hoặc
Cũ tận cùng những ký ức riêng tư
(Mùa cũ)
Rất nhiều bài diễn tả về nỗi nhớ trong Dã Quỳ Tím. Bài nhớ về Lai Châu, Điện Biên, Sapa, Đà Lạt, Bến Tre, Vũng Tàu… Có nỗi nhớ dịu dàng, mộng mơ thoảng qua mà khó quên, có nỗi nhớ ngọt ngào đắng cay, có nỗi nhớ trĩu nặng nợ nhân duyên:
Tình tôi em giữ giùm tôi
Mười năm chắc đã thuộc trời hư vô
Chơi vơi mưa nắng xa mờ
Nhớ nhau chỉ biết làm thơ chứ gì
(Nhớ tình)
Thế rồi cũng hết ngày vui
Lối xưa trưa vắng
Một người bỗng xưa
Một ngày bỗng thấy ta thừa
Đi qua hụt hẫng
Như vừa đánh rơi
(Xa xăm)
Hầu hết các bài thơ của Dã Quỳ Tím không tìm những cấu tứ lạ lẫm, mà cảm giác như tác giả đang ngồi bên cạnh, rì rầm kể câu chuyện đời mình, giản dị và gần gũi. Cách dùng từ cũng vậy, không bóng bẩy, ẩn dụ, phô diễn nhưng đằng sau những con chữ đời thuờng ấy, người đọc phát hiện ra những trải nghiệm sâu lắng của một nhà báo, nhà giáo xuất sắc, một nhà văn tinh tế, người đàn ông đối mặt với bao lo toan thường nhật, với sự đổ vỡ trong cuộc hôn nhân đầu tiên… nhoi nhói vết thuơng lòng:
Mỗi tan tầm ba rẽ sang đường khác
Số nhà mới vẫn thỉnh thoảng ba quên
Đội trưa nắng ba dừng xe ghé chợ
Thương hai con những bữa cơm buồn
Vẫn đôi lần xe chợt quen lối cũ
Vội quay đi như một kẻ nhầm đường
Đêm mưa về nhìn lên ô cửa sáng
Nhà bốn người thiếu một hóa neo đơn
Một chữ ký chia ly là mẹ cha có lỗi
Khi buông tay con bơi giữa dòng đời
Quãng đường mới rồi có khi bớt lạ
Vẫn nhớ nhà thương con lắm con ơi !
(Viết cho con)
Cuộc đời trắc trở, đầy bon chen cạm bẫy khiến trái tim đa cảm, đa tình đôi khi thấy tẻ nhạt, nhàm chán và ngột ngạt, Huỳnh Dũng Nhân có những phút thả mình ao ước chút táo bạo, chút mãnh liệt, chút tự do nhưng vẫn rất chừng mực:
Thỉnh thoảng nhắn tin thỉnh thoảng kêu điện thoại
Chẳng vì đâu, vì bất chợt chớ nhau
Thỉnh thoảng thấy cuộc đời này thi vị
Thấy ngày dài và đêm cũng rất sâu
(Thỉnh thoảng)
Khi yêu nhau xin hãy đừng so sánh,
"Em là tôi và tôi cũng là em"
Ta kiêu hãnh vì biết mình tồn tại
Hơn một lần không giống thú hoang
(Yêu)
Dã quỳ tím chủ yếu là các bài thơ theo thể tự do nhưng số ít các bài lục bát lại chấm phá những nét thành công bất ngờ của Huỳnh Dũng Nhân.:
Thế mà cũng đã tỉnh say
Rượu xưa quán cũ
Những ngày cạn nhau
Mà thôi trăm thứ đớn đau
Phá cười nhìn xuống
Chẳng đâu là gì
Thế mà nặng trĩu làm chi
Sao
(Xa xăm)
Người tài hoa thường thấy cô đơn giữa đám đông và Huỳnh Dũng Nhân cũng không tránh khỏi điều này, tôi nhận thấy nhiều bài thơ trong Dã quỳ tím lột tả nỗi trống trải song hành cùng tác giả:
Tôi luôn luôn ngọ nguậy
Trên trái đất của tôi
Chiếc ghế tôi quá chật
Khi tựa cả bầu trời
Đường tôi đi quá hẹp
Rơi rụng hết nụ cười
Nơi tôi đến xa quá
Chỉ còn lại mình tôi
(Tôi)
Vẫn bấy nhiêu thôi yêu với thương
Vẫn là ngần ấy chuyện đời thường
Dăm lần chán sống không tiện nói
Vài phen ngó lặng góc riêng đời
(Tôi chán tôi)
Nhưng người đàn ông với những được mất của “một lần được sống” vẫn thẳng bước vào số phận mình, đón nhận và kiêu hãnh với trái tim mạnh mẽ và đa cảm. Ngoài những bài thơ viết cho con, Huỳnh Dũng Nhân còn có rất nhiều bài thơ viết tặng cha mẹ, tặng anh trai Huỳnh Dũng Nhi:
Kiên nhẫn như bến bờ chung thủy như hải đăng
Anh ra đi rồi trở về như sóng
Gió vừa đổi chiều, muối vừa đủ mặn
Anh mơ hôn thê choàng sóng đăng-ten
(Vũng Tàu)
Cả cuộc đời khổ đau và âm thầm lặng lẽ
Con hối hận biết bao khi để mẹ buồn
Đâu phải đòn roi đã giúp con lớn khôn
Mà nhờ đôi mắt âm thầm của mẹ
(Người mẹ)
Lướt qua những nỗi buồn mất mát, tôi nhận ra nụ cười dịu dàng lạc quan của hạnh phúc hồi sinh, của tổ ấm nhỏ bé anh tìm được sau những kiếm tìm và cả những bài thơ bộc lộ góc nhìn rất “phóng sự”:
Chẳng cần thì thào, chẳng cần rón rén bước chân
Nhà của con đây, dưới bầu trời rộng lớn
Cứ hét toáng lên, cứ cười vang, con ạ
Ngoại ô của con, nhà của con mà
Chìa khóa đây ! trao thằng quậy của ba
Nào, ba dắt tay con lên từng bậc thang xinh xắn
Đồng tiền sạch nên có quyền kiêu hãnh
Mỗi mét vuông đều tình nghĩa bạn bè
(Viết cho Tom)
Thế là tôi cũng có lúc lang thang vào cái ngày Hà Nội ngàn năm tuổi
Không nắng không mưa không kỷ niệm đong đầy
Tôi chỉ có tôi những ngày ngơ ngác cũ
Cứ thương mình sao đơn chiếc nơi đây
Tìm mãi Hà Nội mà chỉ thấy đèn hoa
Cụ Rùa suy tư gì dưới đáy hồ chói lòa đèn giữa mùa mưa mà thiếu điện
Thương miền Trung những ngày này lại gầm gào bão đến
Một cây đèn cầy cũng chẳng có thắp giữa đêm đen
Lại quần quật chống che cơm áo túi tiền…
(Gửi Hà Nội ngàn năm của tôi, 2010)
Có thể thấy chân dung Huỳnh Dũng Nhân hiện lên gần gũi và chân thành bằng Thơ trong Dã Quỳ Tím làm nhiều người bất ngờ. Cách thẩm thấu cuộc sống qua thơ của anh chậm rãi, sâu sắc, dung dị nhưng đầy trải nghiệm.
Thấy một chân trời xa ngái
Một dải hoàng hôn muộn màng
Dặn mình đừng nhìn xuống đất
Cứ đi như thể ngang tàng
(Dặn mình)
Tôi. Đầu , mình, tay chân.Quần áo
Đứng nhờ lực hút trái đất
Cố gắng dặn mình đứng thẳng.
Tôi. Điện thoại. Hon đa.Vi tính.
Một mái nhà. Hai bữa cơm
Cố gắng không rảnh rỗi
Không bị đói.
Tôi. Trái tim đập mong manh. Lá phổi rất phập phồng. Mạch máu âm thầm
Chỉ nhớ đến mỗi khi vào bệnh viện. Cố gắng để an lành
Không bài bạc thuốc lá. Nhưng có thể rượu bia
Để ngày qua đừng chậm.
(Tuyên ngôn)
Khi được tặng tập thơ, tôi đã hỏi anh: “Sao dã quỳ không vàng mà lại tím?” và Huỳnh Dũng Nhân chỉ cười.
Tôi nghĩ, có lẽ tác giả đã gửi gắm rất nhiều khát vọng, tình yêu, cả nỗi đau thấm thía của cuộc đời “được sống một lần” của mình để dã quỳ được một lần trọn vẹn tím… Tôi muốn trích những câu trong bài Thơ Dã quỳ tím , cũng là tựa đề chung cho tập thơ để nói về những điều cảm nhận sau cùng trong bài viết nhỏ này.
ta không dám nhìn lâu hơn nữa
sợ phải lòng em
như thời hai mươi tuổi
phải lòng một buổi sớm mai
ta biết em nhiều năm qua thì con gái
để mỗi xuân đến hồi sinh
đường lãng du ta không mang theo em được
thôi ở lại cho người khác xao lòng
cho ta nhớ ly bia sóng sánh vàng chân núi
ngày mai đến sớm hay muộn
điều đó có nghĩa gì
nếu ta say
em sẽ đưa ta về bằng cái nhìn nhẫn nhịn
hoa dã quỳ ngả sang màu tím
(Dã quỳ tím)
Vũng Tàu 17.7.2011
Vũ Thanh Hoa
-----
Duy Khanh
Hoi Nha Van Thanh Pho Ho Chi Minh:
19.7.2011-12:30
Đọc tập thơ Dã quỳ tím của Huỳnh Dũng Nhân
BÙI CHÍ VINH
NVTPHCM- "Dã quỳ tím cuối cùng cũng nở hoa dù… muộn. Nhân danh một bằng hữu kiêm đồng nghiệp, tôi chúc anh chàng hành phương Nam ngày nào tiếp tục mở cửa vườn mình gặt hái những bông hoa dã quỳ mới nở."
Tôi có cách riêng đọc thơ Huỳnh Dũng Nhân. Đọc không phải để chia sẻ với anh chàng yêu hoa tình cờ phát giác ra vẻ đẹp của DÃ QUỲ TÍM (tên tập thơ đầu tay của Huỳnh Dũng Nhân) mà đọc theo cách của một gã giang hồ từng trải đang quan sát cuộc hành trình của anh chàng “hành phương Nam” rất muốn làm những chuyến giang hồ.
Chớ gì nữa, thưở ấy chúng ta còn trẻ lắm phải không Nhân? Năm 1975 thuở bạn từ phương Bắc hành phương Nam tuổi chỉ mới đôi mươi còn ở Sài Gòn thì tôi 21 tuổi. Thuở ấy tuổi chúng ta đẹp đến mức mọi núi non cản trở trước mặt đều trở nên bằng phẳng dưới gót giày. Ấy thế mà, Nhân đã dự báo trước quá trình làm người của thế hệ mình đầy gập ghềnh bất trắc. Ngay ở trang thứ 7 của tập thơ, bài thơ TÔI của Nhân đã tiết lộ ít nhiều về điều đó:
Tôi luôn luôn ngọ nguậy
Trên trái đất của tôi
Chiếc ghế tôi quá chật
Khi tựa cả bầu trời
Đường tôi đi quá hẹp
Rơi rụng hết nụ cười
Nơi tôi đến xa quá
Chỉ còn lại mình tôi
Sự tiết lộ theo thời gian đã trở nên công khai, sòng phẳng hơn. Khái niệm sòng phẳng thẳng thắn đã tạo nên “cái tôi” đầy nhân tính khi Nhân tổng kết thân phận mình ở bài thơ TUYÊN NGÔN cuối tập thơ. Xin lược trích vài đoạn:
Tôi. Đầu, mình, tay chân. Quần áo
Đứng nhờ lực hút trái đất
Cố gắng dặn mình đứng thẳng
…
Chẳng cần nịnh nọt và cơ hội
Chẳng cần tìm cái thang cho mình
Đi, yêu và viết. Cứ thế
Cố gắng đừng đánh mất niềm tin
Thứ đơn giản mà khó nhất
Tôi đi tìm tôi
Vâng, đó chính là hai trích đoạn thơ mở ra và khép lại của một cá thể suốt hơn 30 năm đi tìm bản ngã chính mình. Huỳnh Dũng Nhân vừa hào hứng vừa thống khoái mở màn cuộc hành trình chân thiện mỹ để cuối cùng tị nạn êm đềm trong cõi thơ như vậy. Nhẹ lòng, nhẹ gánh tang bồng như lời bạn TỰ THÚ:
Tôi chả biết nói thế nào về thơ tôi cả. Chỉ biết là khi không viết được văn, không viết được báo, không vẽ được, không hát không múa được, không la lên với thiên hạ rằng tôi yêu, tôi buồn, tôi nhớ, tôi thương được thì… tôi muốn làm thơ.
Muốn làm thơ ư ? Hơn ai hết Nhân thừa hiểu làm thơ không phải dễ, nhất là làm thơ tình. Khó như là MỘT CHÚT RIÊNG TƯ vậy. Trong bài thơ trên Nhân đã rình rập một cô gái miền sông nước trong cảm giác của “ăn vụng, nhìn lén, nhớ trộm, yêu thầm” thế mà trái tim cuối cùng lại đập quá vụng về:
Đến ngày về có nói được gì đâu
Đến ngày về vẫn chỉ nhớ thầm nhau
Tội nghiệp anh chàng đa cảm mà tôi quen từ hồi tóc đen cho tới lúc tóc muối tiêu lốm đốm trên đầu có trái tim mãi mãi vụng về hờn dỗi hết sức trẻ con. Các bạn thử kiểm tra một trích đoạn bài thơ NHỚ TÌNH thử xem:
Muôn lần đến vạn lần đi
Buồn như bóng nắng mỗi khi xế chiều
Bây giờ gần cạn tuổi yêu
Tôi thắp ký ức trong veo nhớ tình
Xong. Bây giờ gạt qua một bên những khát vọng thân phận, những nỗi niềm bướm hoa của anh chàng quanh năm “mới lớn”, tôi xin phép trở lại cái cách mà tôi quan sát những cuộc phiêu lưu của Huỳnh Dũng Nhân bằng kinh nghiệm giang hồ. Bằng kinh nghiệm của một kẻ va chạm quá nhiều với đời sống, tôi thấy Nhân mỗi lần vấp ngã (trong tình yêu trong gia đình trong nghề nghiệp) là bạn lại đứng bật dậy và thăng hoa. Không tin hãy nhìn những cuộc viễn du của Nhân xem, Nhân hóa thân thành thi sĩ thực sự khi gởi hồn xâm nhập vào những vùng đất Tây Nguyên và Tây Bắc. Ở đó trước sơn lam chướng khí, trước non nước hữu tình, bạn đã khám phá ra vẻ đẹp tuyệt đối khi người nữ có mặt. Người nữ trong thơ Nhân lúc ấy là nét chấm phá linh hồn làm nên bức tranh đất nước quê hương. Tôi có thể liệt kê những bài thơ mang tựa GỬI HEO MAY, HOA BAN, NÀY EM LAI CHÂU, SAPA MƯA, MÔI HOA… như những họa phẩm hoàn chỉnh cả tứ thơ lẫn vần điệu:
Bao giờ gặp lại Sapa nhỉ
Mình lượn vòng quanh dốc nhà thờ
Để nép vào nhau Sapa lạnh
Hôn nhau ấm cả Sapa mưa
Và một đoạn khác:
Rượu cần em chúm môi hoa
Tôi đi nghiêng ngã như là bùa yêu
Đốt lên đống lửa phiêu diêu
Muôn tàn lửa cháy bấy nhiêu môi hồng
May mắn và cũng hạnh phúc thay, tâm hồn bạn tôi đã bình ổn nhờ cái đẹp mơ hồ mong manh sương khói. Cái đẹp “tình đời” ấy đã giúp chúng ta sau hơn 30 năm vẫn nguyên vẹn tình bằng hữu. Thứ tình bằng hữu của những người đàn ông thông qua thi ca lúc những năm 1975, 1976 tôi la cà đọc thơ cho Bùi Việt Phong, Huỳnh Dũng Nhân, Thái Thăng Long… ở khuôn viên trường đại học Tổng Hợp nơi các bạn theo học. Thứ tình bằng hữu truyền khẩu như lời nhà báo Duy Vượng (đã khuất núi) thường khen Nhân ngoài chuyện giỏi làm báo viết văn còn có năng khiếu… đánh bóng bàn.
Rồi mọi chuyện dâu bể chắc chắn sẽ qua cùng thế sự thăng trầm. Nhưng “quân mạc vấn” vẫn còn ám ảnh Nhân khi bạn tự chát vấn mình qua bài thơ XA XĂM đau nhói:
Thế mà cũng đã tỉnh say
Rượu xưa quán cũ những ngày cạn nhau
Mà thôi trăm thứ đớn đau
Phá cười nhìn xuống chẳng đâu là gì
Thế mà nặng trĩu làm chi
Sao ôm mãi thế, về đi hết rồi
Về đi hết rồi. DÃ QUỲ TÍM cuối cùng cũng nở hoa dù… muộn. Nhân danh một bằng hữu kiêm đồng nghiệp, tôi chúc anh chàng hành phương Nam ngày nào tiếp tục mở cửa vườn mình gặt hái những bông hoa dã quỳ mới nở. Bởi vì thưa bạn hiền, cuối cùng vẫn chỉ có thi ca và nghệ thuật là bóng mát cây đời che chở cho con người bất hạnh. Nó chứng minh cho chân lý vĩnh cửa của Goethe:
“Tất cả lý thuyết đều là màu xám
Mà cây đời thì mãi mãi xanh tươi”
16.7.2011
BCV
-----
Vũ Thanh Hoa tặng truyện, Huỳnh Dũng Nhân tặng thơ
Cuối heo may ta nhớ nụ hôn đầu
VŨ THANH HOA
Đọc tập thơ Dã quỳ tím của Huỳnh Dũng Nhân
Đôi khi ta gặp một người quen, không màu mè khách sáo, chuyện trò “rút ruột” với nhau đủ thứ trên trời dưới biển, từ những niềm hạnh phúc li ti cho đến nỗi đau sâu thẳm, và rồi ta bỗng bất ngờ, bất ngờ bởi chính sự quen thuộc có vẻ như xưa cũ ấy ẩn chứa những phát hiện, những xúc cảm tưởng như gần gũi dung dị nhưng lại đầy mới mẻ bởi những triết lý về đời sống, tình yêu, về sự thành công và mất mát… Tôi miên man nghĩ như thế khi gấp lại trang cuối cùng tập thơ Dã Quỳ Tím của nhà báo, nhà giáo, nhà văn Huỳnh Dũng Nhân; tập thơ do Nhà Xuất bản Trẻ phát hành tháng 6.2011 và tôi là một trong những người đầu tiên hân hạnh đuợc tác giả tặng.
“Tôi chả biết nói thế nào về thơ tôi cả . Chỉ biết là khi không viết được văn, không viết được báo, không vẽ được, không hát không múa được, không la lên với thiên hạ rằng tôi yêu, tôi buồn, tôi nhớ, tôi thương…thì tôi muốn làm thơ.
Thế thôi.
Như một chút riêng tư.
Như một chút gì để tặng mọi người.
Kỷ niệm một lần được sống trên đời”
(Tự thú)
Đó là những dòng “tự bạch” của tác giả mở đầu tập thơ, dường như khiêm nhường, lại duờng như có chút khoe về sự “đa nghề” của mình, tôi thấy thú vị ở ý nghĩ Kỷ niệm một lần được sống trên đời, và tôi giở tiếp trang thơ để xem “một lần sống” của Huỳnh Dũng Nhân thế nào…
Đã dặn lòng đừng ngược về quá khứ
Cuối heo may ta nhớ nụ hôn đầu
Mỏi bước hoài dốc cạn đáy ly sâu
Ta ở lại, người đừng đi, ta đợi…
(Gửi heo may)
Và trong dòng chảy bộn bề sống của người đàn ông này, ký ức chưa bao giờ ngủ yên. Tôi nhớ câu châm ngôn nước ngoài: “Điều khó xử của con người là chúng ta vừa yêu lại vừa ghét sự thay đổi.” và Hùynh Dũng Nhân luôn đau đáu với những kỷ niệm, trăn trở giữa đuợc và mất, sự trăn trở rất thơ mà cũng rất thực:
Nhớ người hồi ấy dịu dàng lắm
Mắt ướt như là mới giận ai
Mới hẹn hò đây mà xa quá
Bấm đốt tay thấy tháng năm dài
(Nhớ)
Mùa cũ dịu dàng đời cũ qua mau
Ấu thơ xưa đã về khung trời khác
Ta cũ đến không nhận ra mê hoặc
Cũ tận cùng những ký ức riêng tư
(Mùa cũ)
Rất nhiều bài diễn tả về nỗi nhớ trong Dã Quỳ Tím. Bài nhớ về Lai Châu, Điện Biên, Sapa, Đà Lạt, Bến Tre, Vũng Tàu… Có nỗi nhớ dịu dàng, mộng mơ thoảng qua mà khó quên, có nỗi nhớ ngọt ngào đắng cay, có nỗi nhớ trĩu nặng nợ nhân duyên:
Tình tôi em giữ giùm tôi
Mười năm chắc đã thuộc trời hư vô
Chơi vơi mưa nắng xa mờ
Nhớ nhau chỉ biết làm thơ chứ gì
(Nhớ tình)
Thế rồi cũng hết ngày vui
Lối xưa trưa vắng
Một người bỗng xưa
Một ngày bỗng thấy ta thừa
Đi qua hụt hẫng
Như vừa đánh rơi
(Xa xăm)
Hầu hết các bài thơ của Dã Quỳ Tím không tìm những cấu tứ lạ lẫm, mà cảm giác như tác giả đang ngồi bên cạnh, rì rầm kể câu chuyện đời mình, giản dị và gần gũi. Cách dùng từ cũng vậy, không bóng bẩy, ẩn dụ, phô diễn nhưng đằng sau những con chữ đời thuờng ấy, người đọc phát hiện ra những trải nghiệm sâu lắng của một nhà báo, nhà giáo xuất sắc, một nhà văn tinh tế, người đàn ông đối mặt với bao lo toan thường nhật, với sự đổ vỡ trong cuộc hôn nhân đầu tiên… nhoi nhói vết thuơng lòng:
Mỗi tan tầm ba rẽ sang đường khác
Số nhà mới vẫn thỉnh thoảng ba quên
Đội trưa nắng ba dừng xe ghé chợ
Thương hai con những bữa cơm buồn
Vẫn đôi lần xe chợt quen lối cũ
Vội quay đi như một kẻ nhầm đường
Đêm mưa về nhìn lên ô cửa sáng
Nhà bốn người thiếu một hóa neo đơn
Một chữ ký chia ly là mẹ cha có lỗi
Khi buông tay con bơi giữa dòng đời
Quãng đường mới rồi có khi bớt lạ
Vẫn nhớ nhà thương con lắm con ơi !
(Viết cho con)
Cuộc đời trắc trở, đầy bon chen cạm bẫy khiến trái tim đa cảm, đa tình đôi khi thấy tẻ nhạt, nhàm chán và ngột ngạt, Huỳnh Dũng Nhân có những phút thả mình ao ước chút táo bạo, chút mãnh liệt, chút tự do nhưng vẫn rất chừng mực:
Thỉnh thoảng nhắn tin thỉnh thoảng kêu điện thoại
Chẳng vì đâu, vì bất chợt chớ nhau
Thỉnh thoảng thấy cuộc đời này thi vị
Thấy ngày dài và đêm cũng rất sâu
(Thỉnh thoảng)
Khi yêu nhau xin hãy đừng so sánh,
"Em là tôi và tôi cũng là em"
Ta kiêu hãnh vì biết mình tồn tại
Hơn một lần không giống thú hoang
(Yêu)
Dã quỳ tím chủ yếu là các bài thơ theo thể tự do nhưng số ít các bài lục bát lại chấm phá những nét thành công bất ngờ của Huỳnh Dũng Nhân.:
Thế mà cũng đã tỉnh say
Rượu xưa quán cũ
Những ngày cạn nhau
Mà thôi trăm thứ đớn đau
Phá cười nhìn xuống
Chẳng đâu là gì
Thế mà nặng trĩu làm chi
Sao
Ôm
Mãi
Thế
Về đi
Hết rồi
(Xa xăm)
Người tài hoa thường thấy cô đơn giữa đám đông và Huỳnh Dũng Nhân cũng không tránh khỏi điều này, tôi nhận thấy nhiều bài thơ trong Dã quỳ tím lột tả nỗi trống trải song hành cùng tác giả:
Tôi luôn luôn ngọ nguậy
Trên trái đất của tôi
Chiếc ghế tôi quá chật
Khi tựa cả bầu trời
Đường tôi đi quá hẹp
Rơi rụng hết nụ cười
Nơi tôi đến xa quá
Chỉ còn lại mình tôi
(Tôi)
Vẫn bấy nhiêu thôi yêu với thương
Vẫn là ngần ấy chuyện đời thường
Dăm lần chán sống không tiện nói
Vài phen ngó lặng góc riêng đời
(Tôi chán tôi)
Nhưng người đàn ông với những được mất của “một lần được sống” vẫn thẳng bước vào số phận mình, đón nhận và kiêu hãnh với trái tim mạnh mẽ và đa cảm. Ngoài những bài thơ viết cho con, Huỳnh Dũng Nhân còn có rất nhiều bài thơ viết tặng cha mẹ, tặng anh trai Huỳnh Dũng Nhi:
Kiên nhẫn như bến bờ chung thủy như hải đăng
Anh ra đi rồi trở về như sóng
Gió vừa đổi chiều, muối vừa đủ mặn
Anh mơ hôn thê choàng sóng đăng-ten
(Vũng Tàu)
Cả cuộc đời khổ đau và âm thầm lặng lẽ
Con hối hận biết bao khi để mẹ buồn
Đâu phải đòn roi đã giúp con lớn khôn
Mà nhờ đôi mắt âm thầm của mẹ
(Người mẹ)
Lướt qua những nỗi buồn mất mát, tôi nhận ra nụ cười dịu dàng lạc quan của hạnh phúc hồi sinh, của tổ ấm nhỏ bé anh tìm được sau những kiếm tìm và cả những bài thơ bộc lộ góc nhìn rất “phóng sự”:
Chẳng cần thì thào, chẳng cần rón rén bước chân
Nhà của con đây, dưới bầu trời rộng lớn
Cứ hét toáng lên, cứ cười vang, con ạ
Ngoại ô của con, nhà của con mà
Chìa khóa đây ! trao thằng quậy của ba
Nào, ba dắt tay con lên từng bậc thang xinh xắn
Đồng tiền sạch nên có quyền kiêu hãnh
Mỗi mét vuông đều tình nghĩa bạn bè
(Viết cho Tom)
Thế là tôi cũng có lúc lang thang vào cái ngày Hà Nội ngàn năm tuổi
Không nắng không mưa không kỷ niệm đong đầy
Tôi chỉ có tôi những ngày ngơ ngác cũ
Cứ thương mình sao đơn chiếc nơi đây
Tìm mãi Hà Nội mà chỉ thấy đèn hoa
Cụ Rùa suy tư gì dưới đáy hồ chói lòa đèn giữa mùa mưa mà thiếu điện
Thương miền Trung những ngày này lại gầm gào bão đến
Một cây đèn cầy cũng chẳng có thắp giữa đêm đen
Lại quần quật chống che cơm áo túi tiền…
(Gửi Hà Nội ngàn năm của tôi, 2010)
Có thể thấy chân dung Huỳnh Dũng Nhân hiện lên gần gũi và chân thành bằng Thơ trong Dã Quỳ Tím làm nhiều người bất ngờ. Cách thẩm thấu cuộc sống qua thơ của anh chậm rãi, sâu sắc, dung dị nhưng đầy trải nghiệm.
Thấy một chân trời xa ngái
Một dải hoàng hôn muộn màng
Dặn mình đừng nhìn xuống đất
Cứ đi như thể ngang tàng
(Dặn mình)
Tôi. Đầu , mình, tay chân.Quần áo
Đứng nhờ lực hút trái đất
Cố gắng dặn mình đứng thẳng.
Tôi. Điện thoại. Hon đa.Vi tính.
Một mái nhà. Hai bữa cơm
Cố gắng không rảnh rỗi
Không bị đói.
Tôi. Trái tim đập mong manh. Lá phổi rất phập phồng. Mạch máu âm thầm
Chỉ nhớ đến mỗi khi vào bệnh viện. Cố gắng để an lành
Không bài bạc thuốc lá. Nhưng có thể rượu bia
Để ngày qua đừng chậm.
(Tuyên ngôn)
Khi được tặng tập thơ, tôi đã hỏi anh: “Sao dã quỳ không vàng mà lại tím?” và Huỳnh Dũng Nhân chỉ cười.
Tôi nghĩ, có lẽ tác giả đã gửi gắm rất nhiều khát vọng, tình yêu, cả nỗi đau thấm thía của cuộc đời “được sống một lần” của mình để dã quỳ được một lần trọn vẹn tím… Tôi muốn trích những câu trong bài Thơ Dã quỳ tím , cũng là tựa đề chung cho tập thơ để nói về những điều cảm nhận sau cùng trong bài viết nhỏ này.
ta không dám nhìn lâu hơn nữa
sợ phải lòng em
như thời hai mươi tuổi
phải lòng một buổi sớm mai
ta biết em nhiều năm qua thì con gái
để mỗi xuân đến hồi sinh
đường lãng du ta không mang theo em được
thôi ở lại cho người khác xao lòng
cho ta nhớ ly bia sóng sánh vàng chân núi
ngày mai đến sớm hay muộn
điều đó có nghĩa gì
nếu ta say
em sẽ đưa ta về bằng cái nhìn nhẫn nhịn
hoa dã quỳ ngả sang màu tím
(Dã quỳ tím)
Vũng Tàu 17.7.2011
Vũ Thanh Hoa
-----
Dã quì tím - nghiệp, đời và thơ
DUY KHANH
“Lần giở đến trang cuối cùng, tôi cảm nhận rằng, mỗi bài thơ trong Dã quỳ tím của Huỳnh Dũng Nhân như một câu chuyện trong bài phóng sự, mà đường nét chấm phá thì rất riêng”.
Những vầng thơ khúc chiết và lung linh, trầm lắng hay bay bổng như những nốt nhạc. Có lẽ vì vậy mà nhiều người đã cảm nhận rằng, trong thơ có nhạc và trong nhạc có thơ. Phải chăng vì thế mà 50 bài trong tập thơ Dã quỳ tím – tập thơ đầu tay của nhà báo Huỳnh Dũng Nhân chắt lọc sau hơn 30 năm làm báo - đã có đến 10 bài phổ nhạc? Tập thơ Dã quì tím tuy chưa đạt được cái hay tinh túy của thơ, nhưng đã đem đến cho người đọc những niềm tin từ cuộc sống và dòng cảm xúc dâng trào của sự chia ly chưa biết ngày trở lại bởi bước chân lãng du:
“… Đường lãng du ta không mang theo em được/ Thôi ở lại cho người khác xao lòng/ Cho ta nhớ ly bia song sánh vàng chân núi/ Ngày mai đến sớm hay muộn điều đó có nghĩa gì…” (Dã quỳ tím)
Ngay cả khi cuộc tình tan vỡ, nỗi đau anh nén vào lòng và tin vào ngày mới : “… Muốn về lấy dăm món cũ/ Sợ mắt con trẻ vỡ òa/ Con ơi lòng ba rạn nứt/ Lâu rồi đâu phải hôm qua/ Mà thôi quyết là làm lại/ Đi rồi đường mới sẽ quen…” (Làm lại).
Lần giở đến trang cuối cùng, tôi cảm nhận rằng, mỗi bài thơ trong Dã quỳ tím của Huỳnh Dũng Nhân như một câu chuyện trong bài phóng sự, mà đường nét chấm phá thì rất riêng. Phần lớn các bài thơ được viết rất phóng túng, không theo niêm luật. Nói như thể không có nghĩa là chối bỏ sự “gọt dũa” trong từng ý thơ mà cụ thể là dòng thơ quen thuộc lục bát. Xin đọc cùng tôi những vần lục bát lạ, điêu luyện và hay tuyệt vời (dù Huỳnh Dũng Nhân rất ít viết thể thơ này) : “Hôm nay chợt bỗng nhớ tình/ Từ rong rêu đến bình minh một ngày…” (Nhớ tình) hay là: “ …Mà thôi trăm thứ đớn đau/ Phá cười nhìn xuống chẳng đâu là gì/ Thế mà nặng trĩu làm cho/ Sao ôm mãi thế về đi hết rồi.” (Xa xăm). Bạn cứ thử một lần đọc Dã quỳ tím để chiêm nghiệm và vững tin vào cuộc sống tươi đẹp này, dù đã vài phen thất bại.Duy Khanh
-----
Nhà báo và cũng là Nhà thơ "trẻ" Huỳnh Dũng Nhân (ảnh chụp 12-2004, do chính chủ gửi TTST BND) |
TTST BND: Tập thơ Dã quỳ tím của Huỳnh Dũng Nhân mới ra mắt, khi tác giả ở tuổi 56, là một sự kiện "nóng" trên báo chí và trong giới văn nghệ. Dưới đây, TTST BND xin giới thiệu toàn bộ bài thơ Dã quỳ tím, mà tên của nó được lấy làm tên cho tập thơ, đăng lần đầu tiên trên báo Thanh Niên đầu năm 2006:
Thanh Niên Online:
21/01/2006 16:31
thế thì thôi
ta đi không trở lại
hoa dã quỳ trải
dọc đường
cao nguyên cuối trời tự nhiên có em
sáng một chân đồi
ta không dám nhìn lâu hơn nữa
sợ phải lòng em
như thời hai mươi tuổi
phải lòng một buổi sớm mai
ta biết em nhiều năm qua thì con gái
để mỗi xuân đến hồi sinh
đường lãng du ta không mang theo em được
thôi ở lại cho người khác xao lòng
cho ta nhớ ly bia sóng sánh vàng chân núi
ta đến sớm hay muộn
điều đó có nghĩa gì
-----
TTST BND:
Ghi chú: bài "Cuối heo may ta nhớ nụ hôn đầu" bên trên có được tác giả chình sửa vài chỗ so với bản đã đăng lần đầu trên trang HVNTPHCM
Kỳ sau: Thêm một số bài viết, nhận xét về tập thơ đầu tay của Huỳnh Dũng Nhân: Thỉnh thoảng thấy cuộc đời này thi vị
Thanh Niên Online:
21/01/2006 16:31
Dã quỳ tím
thế thì thôi
ta đi không trở lại
hoa dã quỳ trải
dọc đường
cao nguyên cuối trời tự nhiên có em
sáng một chân đồi
ta không dám nhìn lâu hơn nữa
sợ phải lòng em
như thời hai mươi tuổi
phải lòng một buổi sớm mai
ta biết em nhiều năm qua thì con gái
để mỗi xuân đến hồi sinh
đường lãng du ta không mang theo em được
thôi ở lại cho người khác xao lòng
cho ta nhớ ly bia sóng sánh vàng chân núi
ta đến sớm hay muộn
điều đó có nghĩa gì
-----
TTST BND:
Ghi chú: bài "Cuối heo may ta nhớ nụ hôn đầu" bên trên có được tác giả chình sửa vài chỗ so với bản đã đăng lần đầu trên trang HVNTPHCM
Kỳ sau: Thêm một số bài viết, nhận xét về tập thơ đầu tay của Huỳnh Dũng Nhân: Thỉnh thoảng thấy cuộc đời này thi vị
18/7/11
Thay ảnh nền cho Google
Nếu hàng ngày bạn nhìn thấy cửa sổ tìm kiếm của Google và cảm thấy có phần đơn điệu, muốn đôi chút thay đổi cho sinh động, có thể tự đổi hình nền giao diện của Google. Sau đây là ví dụ:
Giao diện thông thường mặc định của Google |
Giao diện Google với hình nền bằng ảnh riêng của mình |
Giao diện Google với hình nền lấy từ thư viện ảnh công cộng của Google |
Việc thay đổi như trên được làm chỉ bằng vài thao tác đơn giản:
Bước 1: Mở cửa sổ tìm kiếm của Google (ở đây dùng địa chỉ: www.google.com.vn). Chọn bấm vào mục "Thay đổi ảnh nền" ở góc dưới bên phải |
Bước 3: Sau khi đăng nhập tài khoản Google thành công, bấm vào một trong các lựa chọn ở cột bên trái của cửa sổ vừa hiện ra để bắt đầu chọn hình nền mới cho giao diện Google của mình |
Bạn có thể thử nhiều lần để chọn cho mình một cái ưng ý, hoặc vài ngày lại đổi một hình để tạo cảm giác mới. Sau đó, cứ mỗi khi mở trang chủ Google, đăng nhập vào tài khoản rồi sẽ thấy hình nền do mình đã tạo. Chúc các bạn vui vẻ!
Ghi thêm: Ở bức ảnh lũ trẻ Trại sơ tán làm nền giao diện Google đã dùng trong ví dụ, phải "nhân bản" thêm một hàng người nữa bên trên là do một số khuôn mặt ở hàng dưới bị ô nhập nội dung tìm kiếm Google che lấp khuôn mặt. Ai có hứng thú với hình đó có thể tải về từ địa chỉ này
4/7/11
Tin buồn
Chúng tôi vô cùng thương tiếc báo tin:
Ông Nguyễn Trường Sơn, sinh ngày 15 tháng 7 năm 1959, trú tại số 22, Tú Xương, Quận 3, TP.HCM, Huân chương Lao động hạng 3; nguyên công tác tại Văn phòng Chính phủ (phía Nam), đã từ trần hồi 4 giờ 50 phút ngày 03/7/2011.
Lễ viếng bắt đầu từ 11 giờ ngày 04/7/2011 tại Nhà tang lễ Thành phố, số 25 Lê Quý Đôn, Thành phố Hồ Chí Minh. Lễ truy điệu vào hồi 7 giờ ngày 07/7/2011, an táng tại Nghĩa trang Thành phố.
Xin chia buồn sâu sắc với gia đình.
Ông Nguyễn Trường Sơn, sinh ngày 15 tháng 7 năm 1959, trú tại số 22, Tú Xương, Quận 3, TP.HCM, Huân chương Lao động hạng 3; nguyên công tác tại Văn phòng Chính phủ (phía Nam), đã từ trần hồi 4 giờ 50 phút ngày 03/7/2011.
Lễ viếng bắt đầu từ 11 giờ ngày 04/7/2011 tại Nhà tang lễ Thành phố, số 25 Lê Quý Đôn, Thành phố Hồ Chí Minh. Lễ truy điệu vào hồi 7 giờ ngày 07/7/2011, an táng tại Nghĩa trang Thành phố.
Xin chia buồn sâu sắc với gia đình.
Trại trẻ Sơ tán Báo Nhân Dân
Thông báo: Thay mặt hội Trại trẻ Sơ tán Báo Nhân Dân, nhóm bạn TTST BND tại TP.HCM sẽ tổ chức viếng bạn Nguyễn Trường Sơn (con chú Mạnh Hồng). Các thành viên tham dự tập trung lúc 19:00 ngày 05/7/2011 tại nhà tang lễ TP, 25 Lê Quý Đôn, Q.3 TP. HCM (liên hệ với anh Trần Minh).
21/6/11
Những kỷ niệm sâu sắc
Những ngày ở Hà Nội 3/2011, cô rất mãn nguyện |
Cô Bình Định
Nhân dịp 60 năm ngày ra số báo Nhân Dân đầu tiên (11/3/1951 – 11/3/2011), cô cùng các cô chú đã nghỉ hưu sống tại thành phố Hồ Chí Minh được cơ quan báo Nhân Dân mời ra Hà Nội để dự lễ kỷ niệm. Cô vui mừng vô cùng vì lại có dịp ra thăm Thủ đô, gặp gỡ các bạn đồng nghiệp cũ cùng các cháu thân thương ở Trại trẻ sơ tán năm xưa của báo ta.
Sau buổi lễ kỷ niệm do Báo Nhân Dân tổ chức ngày 10/3/2011, cô lại được dự cuộc họp mặt hàng năm của Trại trẻ vào ngày 13/3/2011, điều mà cô hằng mong ước mỗi khi có dịp ra thăm Hà Nội.
Ngoài mục đích gặp gỡ nhau đầu Xuân, năm nay các cháu còn tổ chức lễ mừng thọ cô 85 và cô Minh 75 tuổi. Cô chân thành cám ơn Ban liên lạc cũng như các cháu ở Trại trẻ xưa đã không quản ngại vất vả, khó khăn, tổ chức một cuộc họp đông vui, ấm cúng như vậy. So với năm ngoái, cuộc họp năm nay quy mô “hoành tráng” hơn. Các cháu đã dành một khoảng nhỏ, tạm gọi là “sân khấu“ để giới thiệu cuộc họp, là nơi để các vị phụ huynh phát biểu ý kiến, đặc biệt, các cháu đã chọn được một người dẫn chương trình đẹp trai, phong độ, nắm bắt sự việc rất nhanh chóng, làm cho không khí cuộc họp sôi nổi hẳn lên.
Về mặt hậu cần, với tài khéo của “chuyên gia ẩm thực” Việt Phương, thực đơn năm nay phong phú hơn năm ngoái, lại có món rượu bưởi độc đáo, thơm ngon, ngọt, rất hợp khẩu vị người cao tuổi và phụ nữ. Nghe đâu loại rượu này do cháu Phạm Thanh Hà tìm được lò sản xuất và mua về. Xin thay mặt các phụ huynh, cô cám ơn các cháu Việt Phương, Thanh Hà và một số cháu trong ban hậu cần. Chẳng biết có phải do rượu bưởi ngon hay không mà không khí cuộc họp càng lúc càng vui hơn: các vị phụ huynh thay nhau phát biểu, mở đầu là chú Đặng Phò, rồi đến các chú Ngô Thi, Đặng Ha, cô Hòa (vợ chú Lê Bình đã quá cố), cô Bình Định v.v...
Cuộc gặp mặt đầu Xuân của các cháu ồn ào náo nhiệt hẳn lên khi tiết mục văn nghệ bắt đầu. Sau khi cô Hòa cất giọng một bài hát xưa còn nhớ, đến màn độc tấu đàn ghi-ta của cháu Quốc Hùng, các cháu Khánh Như, cháu Hiền, cháu Phương Hồng lần lượt biểu diễn, nhà thơ Hồ Thu (cô Sửu) cũng lên đọc một bài thơ... Sau cùng, để nhớ thời chiến tranh, toàn thể các cháu đồng ca bài “Đào công sự” của cố nhạc sĩ Đỗ Nhuận. Trước cuộc vui như vậy, máu văn nghệ trong cô nổi lên, cô liền xung phong hát một bài, mặc dù chất giọng của bà già 85 có khàn khàn và ngắn hơi, song cô nghĩ “vui là chính” nên vẫn mạnh dạn hát với tất cả lòng nhiệt tình của mình, không ngờ được các bạn đồng nghiệp và các cháu vỗ tay nhiều thế. Bài hát đó đã khép lại chương trình liên hoan của buổi họp. Tiếp đến, tất cả phụ huynh và các cháu đều ra sân chụp ảnh lưu niệm. Chú Tích, trước làm ở Phòng Bí thư báo Nhân Dân, sau chuyển ngành đi học đại học Y, từng làm bác sĩ rất giỏi chuyên khoa xương ở bệnh viện Việt Đức, lần đầu tiên được dự cuộc họp mặt như thế này đã nói với chú Trịnh Hải: “Tôi rất cảm động và thán phục những việc làm của các cháu ở Trại trẻ...”
Họp Trại trẻ đến giữa buổi chiều mới tan, sau có một sự việc mà giờ đây cô mới thổ lộ cho các cháu biết, đó là chuyện cô suýt phải đi cấp cứu ngay buổi tối hôm ấy.
Chẳng là cô vốn bị bệnh cao huyết áp. Trong khi đó, những ngày qua, vừa bay một chặng dài ra Hà Nội, rồi do họp hành, do gặp gỡ bạn bè nhiều, cô cũng quá vui, nên quên cả giữ gìn, không chịu ăn uống gì để đảm bảo sức khỏe, rồi lại thêm mấy ly rượu bưởi nữa, nên tự dưng tối về đến khách sạn cô mệt lả, huyết áp tụt (đo bằng máy đo có mang theo), mặt mũi tối sầm, bước đi chỉ muốn ngã. Cô liền gọi điện cho chú Trịnh Hải báo cáo tình hình của mình. Theo lời khuyên của chú Hải, cô uống ngay cốc trà gừng, một lát sau, đỡ mệt hơn, cô uống tiếp một viên “An cung ngưu hoàng hoàn” (tất cả các loại thuốc may mà đều có mang theo để đề phòng chuyện bất trắc). Cô nằm nghỉ, một giờ sau, không còn bị đau đầu nữa, sức khỏe đã khá hơn nhiều. Đến 10 giờ khuya, cháu Hạnh Phúc đến khách sạn ngủ cùng với cô. Cô vẫn lo, dặn cháu Phúc là ban đêm, thỉnh thoảng cháu nhớ phải gọi cô, kẻo cô sợ nếu mà mình mê đi là nguy hiểm lắm. Thật may, ngày hôm sau, cô trở lại bình thường và lại tiếp tục thực hiện kế hoạch đã dự định trong những ngày ở Hà Nội.
Trong chuyến đi lần này, ngoài việc họp cùng các cháu ở hồ Thiền Quang, một hạnh phúc nữa lại đến với cô: được các cháu đưa đi thăm lại nơi sơ tán khi xưa, đó là nhà thờ họ Phùng ở xã Hữu Văn, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây cũ (nay thuộc thủ đô Hà Nội).
Những năm chiến tranh, khi vào Trại trẻ, cô phải đi qua con đường Chúc Sơn, một con đường đất đỏ, hai bên không một bóng cây. Nếu gặp ngày mưa, đất trơn và nhầy nhụa. Muốn đi thì phải bấm miết ngón chân vào đất thật chắc, nếu không thì sẽ trượt ngã. Do đó, cần phải thêm cái gậy chống mới yên tâm hơn để đi trời mưa. Ngày nay, con đường đất đỏ năm xưa đã biến mất chẳng còn bóng dáng, thay vào đó là những dãy nhà xây mọc lên san sát, phố sá đông vui, sầm uất.
Trước khi về đến nhà thờ họ Phùng, cả đoàn đã dừng xe, xuống thắp hương cho cháu Hoài Thu, cháu của mẹ An, bị bệnh mất hồi còn rất nhỏ. Cháu được nhân dân địa phương xây mộ và trông nom rất chu đáo.
Rời mộ cháu Hoài Thu, đoàn xe tiến về ngõ vào nhà thờ họ Phùng. Lúc đó, cô không sao cầm được nước mắt vì cô nhớ đến bạn Trần Dũng, con trai đầu của cô, cùng ở Trại với các cháu, nhưng đã hy sinh oanh liệt vào cuối năm 1974 tại chiến trường Quân khu 9. Hình ảnh mẹ An, cô Hòa, bác Bốn, cô Huỳnh, bác Viên – những người đã gắn bó với Trại trẻ trong những năm chiến tranh – nay đều đã là người thiên cổ… Và rồi biết bao kỷ niệm hiện lên trong tâm trí cô: nào là lúc các cháu chạy vội vào xếp hàng chờ cô Huỳnh phát cho miếng cơm cháy nóng hổi, ròn tan, thơm phức; nào là những buổi xế chiều, sau khi ngủ trưa dậy, các cháu lần lượt đợi chờ cô phân phát kẹo bánh do bố mẹ mang vào gửi ở tủ Trại, hoặc gửi tiền để mẹ An đi chợ mua về cho… Còn một kỷ niệm rất vui, rất thú vị, là do một số cháu bị bênh ghẻ, nên cứ chiều chiều, mẹ An và bác Bốn bắt các cháu ra bờ giếng xếp hàng, mình trần như nhộng, để mẹ An cùng bác Bốn xát lá soan vào người, rồi tắm, kỳ cọ cho từng cháu, sau đó về nhà lại bôi thêm thuốc ghẻ. Cũng nhờ như vậy mà ít lâu sau, bệnh ghẻ của các cháu đã phải cuốn gói ra đi…
Trong thời gian ở Trại trông nom các cháu, cô còn có một kỷ niệm sâu sắc mà suốt đời, cô không bao giờ quên. Đó là năm 1967, cô xung phong ở lại Trại sơ tán ăn Tết, để các bác, các cô khác được về Hà Nội cùng gia đình.
Chiều 30 Tết năm ấy, bỗng đổ mưa tầm tã, sấm chớp liên tục, mây mù kéo đen nghịt cả bầu trời và gió lùa hun hút rất lạnh.
Khoảng 3 giờ chiều, có một người với chiếc xe đạp, áo mưa trùm kín cả mặt mũi, quấn xắn móng lợn, chân đi đất, kèm theo một que tre để gạt bùn bám vào bánh, đồ đạc lỉnh kỉnh, dắt xe đi vào Trại. Khi người đó bỏ áo mưa ra, cô mới nhận ra là chú Nguyễn Huy, phóng viên nhiếp ảnh của cơ quan ta, chú theo lệnh của cố Tổng biên tập Hoàng Tùng, mang quà Tết vào cho gia đình cô và quà biếu nhân dân địa phương. Lúc đó, cô thật bất ngờ và cảm động quá mức, rất cảm ơn báo Đảng đã lo cho anh chị em thật chu đáo, mà người cô biết ơn và quý mến vô cùng là chú Nguyễn Huy. Sau khi trút hết quà bánh, chú Huy liền vội vã đi vì sợ ngày cuối cùng của năm mà trời mưa quá to, bến đò Mai Lĩnh không còn thuyền để sang sông nữa, cũng chẳng kịp uống một chén trà nóng cô vừa vội pha mời chú uống cho ấm bụng.
Nhìn theo bóng chú Huy dắt xe ra về, lòng cô thầm biết ơn và thương xót. Chẳng ngờ đâu, đó lại là lần cuối cùng mà cô gặp chú Huy. Sau đó ít lâu, chú ấy xung phong đi B chiến đấu, đã hy sinh anh dũng vào ngày 28/5/1968, tại chiến trường Quảng Trị. Hình ảnh hôm đó, kỷ niệm sâu sắc ấy còn mãi, cô không bao giờ quên.
Trở lại chuyện chuyến về thăm nơi sơ tán cũ tháng 3 vừa qua, cùng các cháu Trại trẻ, sau khi mọi người đã gặp mặt và chuyện trò thân mật cùng bà con thì trời đã xế trưa, đoàn buộc lòng từ chối bữa cơm thân mật mà bà con địa phương mời, vì còn muốn đi vòng về qua nơi Trại trẻ sơ tán đầu tiên.
Rời nhà thờ họ Phùng, đoàn xe vội lăn bánh về hướng Vân Đình. Ngồi trên xe bị quá bữa, ai nấy đều có vẻ mệt, nhưng được an ủi rằng sẽ chuẩn bị dùng bữa trưa với món đặc sản nổi tiếng: vịt Vân Đình. Quả là danh bất hư truyền, thịt vịt ở thị trấn Vân Đình vừa ngon lại vừa rẻ, cộng thêm chút cay cay của rượu bưởi thì không gì sánh bằng. Cả đoàn ăn một bữa no nê và không quên cám ơn bạn Đặng Việt Phương, người đã giới thiệu quán quen và món vịt có một không hai này.
Thế rồi, sau hơn hai tuần được gặp gỡ, họp hành, vui chơi thỏa thích ở Hà Nội, ngày 26/3/2011, cô lại lên đường trở về thành phố Hồ Chí Minh. Có các cháu Hiếu Dân, Việt Phương và Thúy đã đưa cô lên tận sân bay, làm các thủ tục chuyến bay. Chỉ còn việc chia tay các cháu, cô nghẹn ngào bước vào phòng chờ, lòng dấy lên nỗi thương nhớ các cháu. Cô không dám quay lại vì hai hàng nước mắt cô cứ trào ra, cô không thể làm chủ được mình nữa...
Thêm một lần, cô cám ơn tất cả các cháu đã dành nhiều tình cảm ấm áp, đã tạo điều kiện cho cô về thăm nơi sơ tán cũ với biết bao kỷ niệm xưa. Chúc tất cả các cháu mạnh khỏe, vạn sự tốt lành, đạt được những nguyện vọng, ước mơ của mình.
Thân mến tạm biệt các cháu.
TP. HCM, tháng 5/2011
Sau buổi lễ kỷ niệm do Báo Nhân Dân tổ chức ngày 10/3/2011, cô lại được dự cuộc họp mặt hàng năm của Trại trẻ vào ngày 13/3/2011, điều mà cô hằng mong ước mỗi khi có dịp ra thăm Hà Nội.
Ngoài mục đích gặp gỡ nhau đầu Xuân, năm nay các cháu còn tổ chức lễ mừng thọ cô 85 và cô Minh 75 tuổi. Cô chân thành cám ơn Ban liên lạc cũng như các cháu ở Trại trẻ xưa đã không quản ngại vất vả, khó khăn, tổ chức một cuộc họp đông vui, ấm cúng như vậy. So với năm ngoái, cuộc họp năm nay quy mô “hoành tráng” hơn. Các cháu đã dành một khoảng nhỏ, tạm gọi là “sân khấu“ để giới thiệu cuộc họp, là nơi để các vị phụ huynh phát biểu ý kiến, đặc biệt, các cháu đã chọn được một người dẫn chương trình đẹp trai, phong độ, nắm bắt sự việc rất nhanh chóng, làm cho không khí cuộc họp sôi nổi hẳn lên.
Về mặt hậu cần, với tài khéo của “chuyên gia ẩm thực” Việt Phương, thực đơn năm nay phong phú hơn năm ngoái, lại có món rượu bưởi độc đáo, thơm ngon, ngọt, rất hợp khẩu vị người cao tuổi và phụ nữ. Nghe đâu loại rượu này do cháu Phạm Thanh Hà tìm được lò sản xuất và mua về. Xin thay mặt các phụ huynh, cô cám ơn các cháu Việt Phương, Thanh Hà và một số cháu trong ban hậu cần. Chẳng biết có phải do rượu bưởi ngon hay không mà không khí cuộc họp càng lúc càng vui hơn: các vị phụ huynh thay nhau phát biểu, mở đầu là chú Đặng Phò, rồi đến các chú Ngô Thi, Đặng Ha, cô Hòa (vợ chú Lê Bình đã quá cố), cô Bình Định v.v...
Thư cô Định gửi các cháu |
Họp Trại trẻ đến giữa buổi chiều mới tan, sau có một sự việc mà giờ đây cô mới thổ lộ cho các cháu biết, đó là chuyện cô suýt phải đi cấp cứu ngay buổi tối hôm ấy.
Chẳng là cô vốn bị bệnh cao huyết áp. Trong khi đó, những ngày qua, vừa bay một chặng dài ra Hà Nội, rồi do họp hành, do gặp gỡ bạn bè nhiều, cô cũng quá vui, nên quên cả giữ gìn, không chịu ăn uống gì để đảm bảo sức khỏe, rồi lại thêm mấy ly rượu bưởi nữa, nên tự dưng tối về đến khách sạn cô mệt lả, huyết áp tụt (đo bằng máy đo có mang theo), mặt mũi tối sầm, bước đi chỉ muốn ngã. Cô liền gọi điện cho chú Trịnh Hải báo cáo tình hình của mình. Theo lời khuyên của chú Hải, cô uống ngay cốc trà gừng, một lát sau, đỡ mệt hơn, cô uống tiếp một viên “An cung ngưu hoàng hoàn” (tất cả các loại thuốc may mà đều có mang theo để đề phòng chuyện bất trắc). Cô nằm nghỉ, một giờ sau, không còn bị đau đầu nữa, sức khỏe đã khá hơn nhiều. Đến 10 giờ khuya, cháu Hạnh Phúc đến khách sạn ngủ cùng với cô. Cô vẫn lo, dặn cháu Phúc là ban đêm, thỉnh thoảng cháu nhớ phải gọi cô, kẻo cô sợ nếu mà mình mê đi là nguy hiểm lắm. Thật may, ngày hôm sau, cô trở lại bình thường và lại tiếp tục thực hiện kế hoạch đã dự định trong những ngày ở Hà Nội.
Gặp gỡ người họ Phùng ở Hữu Văn (ông Đoàn trưởng họ) |
Những năm chiến tranh, khi vào Trại trẻ, cô phải đi qua con đường Chúc Sơn, một con đường đất đỏ, hai bên không một bóng cây. Nếu gặp ngày mưa, đất trơn và nhầy nhụa. Muốn đi thì phải bấm miết ngón chân vào đất thật chắc, nếu không thì sẽ trượt ngã. Do đó, cần phải thêm cái gậy chống mới yên tâm hơn để đi trời mưa. Ngày nay, con đường đất đỏ năm xưa đã biến mất chẳng còn bóng dáng, thay vào đó là những dãy nhà xây mọc lên san sát, phố sá đông vui, sầm uất.
Trước khi về đến nhà thờ họ Phùng, cả đoàn đã dừng xe, xuống thắp hương cho cháu Hoài Thu, cháu của mẹ An, bị bệnh mất hồi còn rất nhỏ. Cháu được nhân dân địa phương xây mộ và trông nom rất chu đáo.
Rời mộ cháu Hoài Thu, đoàn xe tiến về ngõ vào nhà thờ họ Phùng. Lúc đó, cô không sao cầm được nước mắt vì cô nhớ đến bạn Trần Dũng, con trai đầu của cô, cùng ở Trại với các cháu, nhưng đã hy sinh oanh liệt vào cuối năm 1974 tại chiến trường Quân khu 9. Hình ảnh mẹ An, cô Hòa, bác Bốn, cô Huỳnh, bác Viên – những người đã gắn bó với Trại trẻ trong những năm chiến tranh – nay đều đã là người thiên cổ… Và rồi biết bao kỷ niệm hiện lên trong tâm trí cô: nào là lúc các cháu chạy vội vào xếp hàng chờ cô Huỳnh phát cho miếng cơm cháy nóng hổi, ròn tan, thơm phức; nào là những buổi xế chiều, sau khi ngủ trưa dậy, các cháu lần lượt đợi chờ cô phân phát kẹo bánh do bố mẹ mang vào gửi ở tủ Trại, hoặc gửi tiền để mẹ An đi chợ mua về cho… Còn một kỷ niệm rất vui, rất thú vị, là do một số cháu bị bênh ghẻ, nên cứ chiều chiều, mẹ An và bác Bốn bắt các cháu ra bờ giếng xếp hàng, mình trần như nhộng, để mẹ An cùng bác Bốn xát lá soan vào người, rồi tắm, kỳ cọ cho từng cháu, sau đó về nhà lại bôi thêm thuốc ghẻ. Cũng nhờ như vậy mà ít lâu sau, bệnh ghẻ của các cháu đã phải cuốn gói ra đi…
Trong thời gian ở Trại trông nom các cháu, cô còn có một kỷ niệm sâu sắc mà suốt đời, cô không bao giờ quên. Đó là năm 1967, cô xung phong ở lại Trại sơ tán ăn Tết, để các bác, các cô khác được về Hà Nội cùng gia đình.
Chiều 30 Tết năm ấy, bỗng đổ mưa tầm tã, sấm chớp liên tục, mây mù kéo đen nghịt cả bầu trời và gió lùa hun hút rất lạnh.
Khoảng 3 giờ chiều, có một người với chiếc xe đạp, áo mưa trùm kín cả mặt mũi, quấn xắn móng lợn, chân đi đất, kèm theo một que tre để gạt bùn bám vào bánh, đồ đạc lỉnh kỉnh, dắt xe đi vào Trại. Khi người đó bỏ áo mưa ra, cô mới nhận ra là chú Nguyễn Huy, phóng viên nhiếp ảnh của cơ quan ta, chú theo lệnh của cố Tổng biên tập Hoàng Tùng, mang quà Tết vào cho gia đình cô và quà biếu nhân dân địa phương. Lúc đó, cô thật bất ngờ và cảm động quá mức, rất cảm ơn báo Đảng đã lo cho anh chị em thật chu đáo, mà người cô biết ơn và quý mến vô cùng là chú Nguyễn Huy. Sau khi trút hết quà bánh, chú Huy liền vội vã đi vì sợ ngày cuối cùng của năm mà trời mưa quá to, bến đò Mai Lĩnh không còn thuyền để sang sông nữa, cũng chẳng kịp uống một chén trà nóng cô vừa vội pha mời chú uống cho ấm bụng.
Nhìn theo bóng chú Huy dắt xe ra về, lòng cô thầm biết ơn và thương xót. Chẳng ngờ đâu, đó lại là lần cuối cùng mà cô gặp chú Huy. Sau đó ít lâu, chú ấy xung phong đi B chiến đấu, đã hy sinh anh dũng vào ngày 28/5/1968, tại chiến trường Quảng Trị. Hình ảnh hôm đó, kỷ niệm sâu sắc ấy còn mãi, cô không bao giờ quên.
Trở lại chuyện chuyến về thăm nơi sơ tán cũ tháng 3 vừa qua, cùng các cháu Trại trẻ, sau khi mọi người đã gặp mặt và chuyện trò thân mật cùng bà con thì trời đã xế trưa, đoàn buộc lòng từ chối bữa cơm thân mật mà bà con địa phương mời, vì còn muốn đi vòng về qua nơi Trại trẻ sơ tán đầu tiên.
Rời nhà thờ họ Phùng, đoàn xe vội lăn bánh về hướng Vân Đình. Ngồi trên xe bị quá bữa, ai nấy đều có vẻ mệt, nhưng được an ủi rằng sẽ chuẩn bị dùng bữa trưa với món đặc sản nổi tiếng: vịt Vân Đình. Quả là danh bất hư truyền, thịt vịt ở thị trấn Vân Đình vừa ngon lại vừa rẻ, cộng thêm chút cay cay của rượu bưởi thì không gì sánh bằng. Cả đoàn ăn một bữa no nê và không quên cám ơn bạn Đặng Việt Phương, người đã giới thiệu quán quen và món vịt có một không hai này.
Ở hội Trại hôm 13/3/2011 |
Thêm một lần, cô cám ơn tất cả các cháu đã dành nhiều tình cảm ấm áp, đã tạo điều kiện cho cô về thăm nơi sơ tán cũ với biết bao kỷ niệm xưa. Chúc tất cả các cháu mạnh khỏe, vạn sự tốt lành, đạt được những nguyện vọng, ước mơ của mình.
Thân mến tạm biệt các cháu.
TP. HCM, tháng 5/2011
Tin ngắn: ngày đặc biệt 21/6
Từ: Tường Hạnh
Về: TTST BND Chúc Mừng chị Sinh nhật
Ngày 09/6/2011
Cám ơn các anh, các chị và các bạn!
Lâu lâu thấy ít dịp gặp gỡ TTST nên thấy "thiêu thiếu", rất mong có dịp được gặp lại mọi người!
Tường Hạnh
-----
Đây là bánh sinh nhật cô Dung tặng cô Bình Định |
Ngày: 21/6/2011
Hôm nay 21/6, là một ngày đặc biệt với hội TTST BND, những người đang làm báo, hoặc những người sinh ra trong gia đình Nhà báo, bởi là Ngày Nhà báo Việt Nam. Không những thế, hôm nay lại đúng là sinh nhật cô Bình Định. Cô Bình Định và mẹ An chính là hai người Mẹ đã bám theo Trại trẻ suốt từ ngày đầu tiên cho tới ngày cuối cùng, thương yêu, tận tụy chăm sóc các cháu Trại trẻ sơ tán của Báo Nhân Dân suốt thời chiến tranh gian khổ 1965 - 1973.
Chúng ta cùng chúc Cô Bình Định luôn giữ gìn được sức khỏe, vui tươi, yêu đời và hạnh phúc cùng con cháu! Chúc cô năm nào cũng về thăm Hà Nội, về thăm được thật nhiều lần nữa!
Nhân dịp đặc biệt này (năm nay cô Bình Định chẵn 85), cô đã dành nhiều thời gian để viết tặng các cháu Trại trẻ Sơ tán Báo Nhân Dân một bài viết dài có tên: "Những kỷ niệm sâu sắc", với nhiều chuyện vui, những kỷ niệm buồn, nhiều tình cảm, tâm sự của cô. Chúng tôi xin đăng trong một bài riêng, mời các bạn chia sẻ (bấm vào đây để xem: Những kỷ niệm sâu sắc)
20/5/11
Ba phút của cuộc đời
TTST BND: Nhận được truyện ngắn này qua email mấy hôm rồi mà chưa kịp đọc vì bận việc lu bù. Nhưng đến khi vừa mở ra, câu chuyện liền cuốn hút không thể dừng lại được, đọc dòng này lại tiếp đến dòng khác. Cứ như thế xem một mạch đến hết truyện. Phải công nhận Vũ Tuấn Hoàng viết rất hấp dẫn và anh có tài kể chuyện hiếm có, nếu không nói là phong cách độc đáo duy nhất trong hội ttst bnd.
-----
Từ: VTH
Ngày: 17/5
Chủ đề: Góp vui
Chào anh, em thấy trang báo nhà mình lâu nay "đìu hiu" quá, nhân có truyện ngắn đăng trên VN cách đây không lâu, gửi các bác và các bạn cùng chia sẻ.
Chúc anh mọi sự như ý!
Cuộc cãi vã đã ở mức thiếu chút nữa thì cả chân và tay cũng phải vào cuộc, nếu như ông Khôi không đứng dậy, giơ tay can hai ông bạn đã hơi quá chén. Bà chủ quán đứng thập thà thập thò ở cửa chỉ lo sợ cho bộ đồ ấm chén vô tội không biết có được vẹn toàn hay không.
- Hai ông đều có cái lý của mình. Một ông thì bảo: có thể và đôi khi cần phải giết người vì một lý tưởng cao cả nào đó như vì tổ quốc, vì sự công bằng, để bảo vệ kẻ yếu… còn ông kia lại nói: giết người dù dưới bất cứ chiêu bài nào cũng là tội ác, là hành vi đẩy con người xuống ngang tầm súc vật. Nhân đây, tôi xin kể với các ông câu chuyện của chính tôi khi mới ngoài 20 tuổi, đang là thợ học việc tại một xí nghiệp sản xuất giày da tại thành phố L. ở nước Nga xa xôi…
- Chuyện về nước Nga của ông tôi nghe mãi rồi, ông đã kể hàng trăm lần…
- Nhưng chuyện này tôi chưa kể cho ai bao giờ. Bởi vì nhân cái đề tài mà các ông đang bàn cãi, thì chính tôi đã vấp phải mà cho đến bây giờ tôi vẫn không thể lý giải nổi tâm lý cũng như hành vi của mình lúc đó. Tại sao tôi lại chấp nhận cái ý định giết người? Vì tiền hay vì bị một ma lực bí ẩn nào đó bủa vây xui khiến?
Bà chủ quán thầm cảm ơn ông Khôi vì đã cứu nguy cho đồ đạc của mình, mặt khác, bà cũng biết tài kể chuyện của ông khách thường xuyên này, nên đã tự tay bưng đến cho ông một ấm trà mới để lên bàn, rồi khe khẽ ngồi vào một chiếc ghế ở cách đó không xa, mặc dù làm ra vẻ giữ ý quay lưng lại nhưng đôi tai của bà căng ra như hai chiếc ăng ten mở hết công suất.
“ Đó là cái mùa hè mà tôi không thể quên được trong đời. Nhà máy phá sản, thất nghiệp, chạy lo ăn từng ngày, làm bất cứ công việc gì miễn là kiếm ra tiền. Cái dạ dày của tuổi hăm hai nó nghiền tất cả mọi loại thức ăn, những thứ đầu thừa đuôi thẹo, cũng vì thời gian này mà tôi mắc chứng đau dạ dày kinh niên. Đúng như kẻ chết đuối vớ được cọng rơm, một người anh hơn tuổi, cùng dân Hà Nội, thương tình cho cầm ít quần bò đi bán chui bán lủi ngoài chợ trời hay các đường ngầm trong thành phố. Hồi đó, buôn bán bị xem là hành vi rất xấu, có thể bị công an bắt giam mà chẳng cần tòa án. Một hôm, do suýt bị công an tóm và tịch thu toàn bộ số hàng, may mà ông anh đến kịp, hối lộ cho tay công an nên tôi được tha. Nhìn bộ dạng của tôi, ông anh vỗ vai an ủi:
- Anh khuyên chú đi xuống dưới vùng nghỉ mát Crum mà làm ăn, kiếm ít tiền giắt lưng về quê làm vốn. Chú cầm tất cả số hàng này đáp ngay tầu chiều mai xuống Mariopon. Ở đấy đông dân tứ xứ đến nghỉ mát ít ai để ý .
Đúng là mùa nghỉ nên ngoài đường, ngoài chợ đủ các chủng tộc người từ khắp các nước cộng hòa của Liên bang Xô-viết kéo về đây. Với ngoại hình của mình, nhiều người không biết tôi là Triều Tiên hay Trung Quốc.Tiếng Nga tôi nói cũng khá thành thạo nên mấy bà bán hàng ở chợ cứ nghĩ tôi là người Kazakstan. Tôi tự nghĩ cho mình một cái tên Nga cho dễ gọi là Xaxa. Cũng cần phải nói thêm là hồi đó tôi cũng vào loại to cao đẹp trai, ngoài đường hay bắt gặp những ánh mắt đưa tình của các cô thiếu nữ với hàng mi dài và cong vút. Tính tôi hơi nhút nhát và thiếu tự tin nên bỏ lỡ nhiều cơ hội làm quen…”
- Ông nói điều này hơi nhiều lần rồi đấy ông Khôi ạ, ông cũng chẳng nhút nhát đâu đừng làm bộ rắn giả lươn, thôi được ông kể tiếp đi, vòng vo vừa vừa thôi, tốt nhất là đi thẳng vào chủ đề chính – Ông bạn ngồi bên trái vê một điếu thuốc lào và trước khi châm lửa, nói:
- Ông cứ làm người ta cụt hứng thế, đúng là ngồi nói chuyện với ông câu trước câu sau là thấy bực mình rồi – Ông bạn ngồi trước mặt có vẻ vẫn còn cay cú chưa nguôi ngoai vì trận cãi nhau vừa qua, cho một chân lên ghế, rồi uống nốt chút rượu trắng còn sót lại dưới đáy cốc.
“Thì cũng phải có khung cảnh cho nó sinh động chứ! Kể về nước Nga mà không có thiên nhiên, khung cảnh, thì chẳng khác gì diễn kịch không có sân khấu, phông màn… Ngày đầu tiên trôi qua suôn sẻ, thậm chí có thể nói là may mắn. Hàng bán hết sạch. Sáng hôm sau, tôi phải đáp chuyến tàu 4 giờ sáng trở về thành phố để lấy thêm hàng. Tôi cảm thấy phấn chấn trong người đến mức không thèm ăn món bánh rán nhân thịt (tiếng Nga gọi là Cheburek) ở tại chợ, mà quyết định vào một tiệm Café ở gần bờ biển để tự thưởng cho mình một bữa ra trò. Tôi ngồi xuống chiếc bàn cạnh cửa sổ nhìn ra biển. Ánh mắt như dán vào những cặp chân trần rám nắng của các thiếu nữ đang đi dạo dọc theo kè đá. Thật là một bức tranh phong cảnh tuyệt tác. Không rõ từ đâu, một thiếu nữ đi ngang qua cửa sổ và đẩy cửa quán bước vào. Ánh sáng từ ngoài hắt xuyên qua bộ áo váy mỏng tang để lộ một thân hình tuyệt vời, những đường cong gợi cảm. Cô nhìn quanh cả gian một lượt như có ý muốn tìm chỗ ngồi, và thật bất ngờ, cô tiến lại phía bàn tôi cất tiếng hỏi:
- Chỗ này còn trống không?
- Tất nhiên... còn nhiều chỗ trống chứ - Tôi hơi ấp úng trả lời và ánh mắt tôi lướt nhanh xuống đôi bàn tay đang cầm chiếc túi xách. Tôi có một thói quen khi gặp phụ nữ hay để ý đến bàn tay của họ. Bàn tay người phụ nữ có thể nói lên nhiều điều hơn chính khuôn mặt họ. Bàn tay không thể dối trá và che đậy.
Cô ta ngồi xuống gần như đối diện với tôi và hướng đôi mắt xanh biếc của mình vào tôi khiến lưng nổi da gà. Sau này nhớ lại, tôi mới hiểu là mình bị chính ánh mắt vừa quyến rũ vừa đầy quyền lực đó thôi miên. Cô ta tầm tuổi như tôi, có thể là lớn hơn một chút. Mái tóc vàng óng ả như một mảng nắng lõa xõa xuống hai bờ vai trắng nõn. Điều này chứng tỏ cô là người sống ở đây hoặc mới đến vùng nghỉ mát này. Người hầu bàn mang đến thực đơn và đặt xuống bàn. Cô không xem mà chỉ gọi mua một cốc nước nho giải khát, rồi rút cuốn tạp chí từ trong chiếc túi xách màu hồng ra đọc. Tôi vừa ăn vừa ngắm vẻ đẹp của khuôn mặt cũng như bộ ngực nở căng dưới làn áo mỏng. Đúng lúc tôi ăn xong thì cô ngẩng mặt lên khỏi trang họa báo và lên tiếng hỏi bằng cái giọng nhỏ nhẹ, rất êm tai:
- Anh đi nghỉ một mình thôi sao? Không buồn à?
- À không, tôi đi làm… Tôi cũng chỉ ở đây vài ngày thôi.
- Nếu anh không bận, chúng ta cùng nhau đi dạo một lát dọc bờ biển, tôi sống ở đây nên chắc cũng có thể giới thiệu với anh đôi điều về thành phố nghỉ mát này...
Một ý nghĩ ập tới trong đầu: đích thị là một ả gái điếm. Chỉ có loại gái ấy mới tự làm quen một cách bạo dạn như vậy với người nước ngoài. Nhưng quả thật, tôi đã bị đôi mắt và thân hình cô hút mất hồn. Vả lại từ giờ cho đến khi về nhà trọ để ngủ còn những năm sáu tiếng nữa, tôi cũng chẳng biết làm việc gì trong cái thành phố xa lạ này, giữa một khung cảnh thiên nhiên tràn đầy nhựa sống, nắng và gió biển kích thích dòng máu trong con người ta chạy mạnh hơn…
- Anh đến đất nước chúng tôi lâu chưa mà nói tiếng Nga khá vậy? Hai chúng tôi đi ngang qua đường và rảo bước về phía bậc thang bằng đá trắng dẫn xuống ngay sát mép nước.
- Mới ba năm thôi, nhưng tôi yêu thích ngôn ngữ này nên cũng chịu khó học.
- Chúng ta đi về phía gần bến canô kia đi, ở đó vắng người hơn. Tôi không thích những ánh mắt của mọi người nhìn chúng ta, cứ như thể anh là người hành tinh khác đến vậy.
Quả thật, tôi không thể ngờ rằng chuyến đi bán hàng của tôi lại được tô điểm bởi một cô gái đẹp, giữa một khung cảnh thơ mộng như thế này. Tôi hầu như chỉ đi trong im lặng, tận hưởng những âm thanh phát ra từ đôi môi xinh xắn, tận hưởng những cái động chạm vô tình khi cô né tránh những cậu thanh niên choai choai phóng xe đạp bạt mạng ngược về hướng chúng tôi. Ánh mắt tôi lúc thì nhìn thẳng vào đôi mắt xanh của cô, lúc lại hướng ra mặt biển cũng xanh hoặc nhìn bầu trời lại càng xanh hơn, bát ngát mênh mông. Mấy cánh buồm trắng thoắt ẩn thoắt hiện ở đường chân trời. Sóng biển vỗ ì ầm vào bờ đá hay sóng trong lòng tôi đây? Hai chúng tôi đi hẳn ra ngoài cầu tầu nơi những chiếc canô, thuyền máy, thuyền buồm thể thao đang dập dình neo đậu. Một người thợ máy quay đầu lại nhìn chúng tôi, những đường cơ bắp ở lưng nổi lên cuồn cuộn, bóng loáng mồ hôi.
- Mà anh cũng chưa giới thiệu tên cho tôi? Tôi là Galia.
- Tên tiếng Nga của tôi là Xaxa.
- Anh hợp với cái tên này đấy. Anh có biết cái tên cũng rất ảnh hưởng đến số phận con người không?
- Tên của cô thì sao? Nó có nói lên điều gì về số phận của cô không?
Cô không trả lời. Đột nhiên, khuôn mặt của cô gái thay đổi và trở nên u ám. Hình như, cô đang vương vấn một điều gì đó khó nói. Hai chúng tôi im lặng. Chỉ có tiếng kêu của mấy con chim hải âu đang giỡn nhau trên sóng.
Bất ngờ, Galia nắm chặt lấy tay tôi và nói bằng một giọng đầy xúc động:
- Anh có thể giúp tôi một việc hệ trọng được không?
- Chuyện gì vậy? Tại sao lại là tôi? Một người cô mới gặp cách đây chưa đầy một giờ đồng hồ?
- Phải, chỉ có anh mới giúp được tôi. Vì anh không phải là người ở đây.
Bàn tay cô vẫn nắm chặt tay tôi. Tôi như cảm nhận được một luồng điện truyền qua đó. Mùi nước hoa từ người cô khiến tôi chếnh choáng.
- Tôi đã có chồng. Anh ấy là thợ mỏ. Năm ngoái, anh ấy bị tai nạn hầm lò, bị liệt toàn thân và mù hoàn toàn…
- Thật bất hạnh cho cô – Tôi thốt lên và cảm thấy một nỗi thương cảm bỗng trào dâng trong lòng. Đồng thời, tôi cũng tự trách chính bản thân mình quá hồ đồ khi nghĩ cô là một con điếm.
- Thế cô muốn tôi giúp gì?
- Anh có thể giúp cho anh ấy, giải phóng cho anh ấy khỏi những đau đớn dày vò thường xuyên…
- Bằng cách nào? Tôi ngạc nhiên hỏi lại.
Galia không trả lời thẳng vào câu hỏi mà hấp tấp mở túi xách của mình rút ra một… khẩu súng lục.
Tôi choáng váng không tin ở mắt mình. Hoặc là tôi mất trí hoặc là người phụ nữ này đã phát điên.
- Giết... giết… chồng cô? Miệng tôi líu lại.
Galia khẽ gật đầu và cô òa khóc tức tưởi.
- Chính anh ấy muốn thế, anh ấy muốn giải phóng, anh ấy không muốn là một gánh nặng…
Tôi giật tay mình ra khỏi bàn tay của cô ta và hét lên:
- Không bao giờ! Cô nhầm rồi! Tại sao cô không tự làm? Tại sao cô không nhờ ai khác mà lại chính tôi?
Galia cho khẩu súng vào trong túi và rút từ đấy ra một xấp tiền dày.
- Nếu tôi tự làm được thì đã không phải nhờ đến anh. Tôi yêu chồng tôi nên tôi không thể chứng kiến hơn được nữa những đau đớn mà anh ấy phải chịu đựng trong nhiều tháng nay. Anh ấy hàng ngày, hàng giờ van xin tôi làm việc này. Anh có hiểu không? Anh là người hoàn toàn xa lạ, từ một nước khác đến, anh chỉ làm việc này trong 3 phút, rồi anh đi khỏi đây mãi mãi, không ai biết anh là ai. Hơn nữa, tôi sẽ trả hậu hĩnh cho anh, đây là số tiền thù lao tám ngàn rúp! Nhà tôi ở cách đây không xa? Anh hành động xong, ra tàu và chúng ta không bao giờ còn gặp lại nhau nữa trên cõi đời này.
Tôi thực sự chẳng khác gì người bị cấm khẩu, chỉ biết nhìn cô gái mới quen bằng một ánh mắt thất thần.
- Đây là điện thoại nhà tôi, anh cứ suy nghĩ kỹ đi, nếu đồng ý, anh gọi điện cho tôi. Còn đây là một nghìn rúp anh cứ cầm trước – Cô đút vào túi áo ngực tôi một xếp tiền – nếu xong việc, anh sẽ nhận nốt phần còn lại trước khi ra tàu.
Nói đến đây, cô hôn nhẹ vào má tôi một cái và rảo bước quay trở lại. Một mình tôi đứng thẫn thờ trên cầu tàu, toàn thân rã rời vì rơi vào một tình huống quá sức tưởng tượng. Tôi cứ nhìn theo mãi cái dáng dong dỏng cao, cân đối của người phụ nữ có cái tên Galia đang đi xa dần, xa dần và hòa vào dòng người tấp nập trên bờ biển.
Suốt đêm tôi không chợp mắt được. Hình ảnh cô gái với khuôn mặt đầy nước mắt cứ chập chờn trứơc mặt. Chả nhẽ bộ mặt thật của tình yêu lại sù sì và ghê gớm đến như vậy sao? Hay chỉ những người phụ nữ Nga mới dám hành động như vậy? Tôi bỗng nghĩ đến mẹ mình và các em gái ở nhà. Bố tôi đã từng là một dũng sĩ diệt Mỹ và hy sinh trong dịp Tết Mậu Thân, mẹ tôi ở vậy nuôi bốn anh em chúng tôi. Trên thực tế, tôi đã gánh vác trách nhiệm của người cha trong gia đình. Với số tiền tám ngàn rúp tôi có thể mua được một ngôi nhà khang trang cho cả gia đình, để thoát cảnh sống chen chúc trong một nhà xe được cải tạo lại thành nhà ở trong khu lao động Tương Mai.
“Anh làm việc này là để cứu anh ấy, giải phóng cho anh ấy khỏi những đau đớn” - câu nói đó của Galia cứ lặp đi lặp lại trong đầu tôi và chính chúng đã dựng tôi dậy khỏi giường vào lúc 3 giờ sáng. Tôi quyết định ra ga sớm hơn một chút để gọi điện trả lại tiền cho Galia. Cô ấy nói sống ở đâu đó gần đây thôi. Bên ngoài cửa sổ vẫn tối đen, thỉnh thoảng từ phía biển đưa lại tiếng máy tàu lịch sịch. 4 giờ sáng tôi phải ra tàu đi về L. Còn gần một tiếng nữa. Mẩu giấy ghi điện thoại để trên chiếc bàn ở đầu giường. Tôi đi đi lại lại trong phòng không biết bao nhiêu lần. “Sẽ không một ai biết được việc này – tôi thầm nghĩ – nhưng đây là một hành động giết người? Nhất quyết mình không thể làm nổi, không thể đang tâm giơ súng lên nhằm vào một con người dù anh ta mong muốn điều đó. Nhưng thôi, mình cũng phải trả lại số tiền một nghìn rúp này cho cô ấy”. Tôi khép cánh cửa lại, cố không để gây ra tiếng cót két và rón rén đi ra ngoài. Không một bóng người, chỉ có mấy con chó chắc đói ăn đi tha thẩn gần chỗ đổ rác thải của dân đi nghỉ. Tôi đi tới bốt điện thoại ở gần bến xe buýt. Đến gần mới nhìn thấy một tay vô gia cư đang ngủ ngồi trong đó. Hắn khóa chốt bên trong lại và yên trí ngáy pho pho. Ánh đèn đường chiếu rõ khuôn mặt râu ria lởm chởm. Tôi đập mạnh vào cửa kính và lấy tay ra hiệu ý muốn gọi điện thoại. Gã kia choàng tỉnh, lầu bầu văng tục và đẩy cửa bước ra. Mùi hôi từ người gã phả ra khiến tôi muốn ói. Gã khênh khạng đi đến bên gốc cây và đái tồ tồ, miệng phát ra những âm thanh có vẻ giống như một bài hát. Tôi giữ cửa bốt điện thoại mở một lúc cho thoáng, rồi đóng sập lại sau lưng. Ngón tay trỏ của tôi hấp tấp quay số. Đồng kopek rơi xuống leng keng trong hộp điện thoại khiến tôi giật mình. Những tiếng tút dài mới ghê rợn làm sao! Đầu dây bên kia đã có người nhấc máy. Im lặng mấy giây.
- Alô, Galia có phải không? Tôi khẽ nói như sợ xung quanh có ai đó nghe thấy, mặc dù chẳng có ma nào. Gã vô gia cư đã thất thểu đi khuất vào sau bên xe.
- À, anh đấy à? Sao? Thế nào? Giọng nói quen thuộc lúc chiều vang lên trong ống nghe.
- Tôi… Tôi…
- Anh đồng ý rồi phải không? Ngay bây giờ là tốt nhất. Anh nghe đây. Tôi ở cuối con phố mà anh thuê nhà trọ. Nhà số 13, ngoài cổng có treo một chiếc chuông bằng đồng. Anh không cần phải bấm chuông vì tôi sẽ mở cổng ngay bây giờ. Khẩu súng tôi để ngay sau cánh cửa ra vào, trong hộp đựng thư. Súng giảm thanh và đạn đã lên nòng anh không phải lo lắng. Căn phòng nơi chồng tôi nằm ở bên trái. Anh hành động xong, dùng báng súng đập vỡ cánh cửa để làm như một vụ cướp, rồi đi khỏi đây luôn. Tôi chờ anh ở bến xe cuối phố và anh sẽ nhận được số tiền bảy nghìn còn lại. Anh hãy vất khẩu súng xuống biển… Sao? Sao anh im lặng vậy? Anh hãy giúp chúng tôi, tôi van anh!
Có tiếng khóc thút thít ở đầu dây bên kia.
- Liệu ba phút có kịp không?
Tôi bất ngờ với câu hỏi của chính mình, không hiểu trời xui đất khiến thế nào lại thốt ra câu đó. Như vậy là tôi đã đồng ý, mà trong thâm tâm không hề muốn làm việc này. Mục đích tôi gọi điện là để trả lại tiền chứ có phải đồng ý với ý định của cô ấy đâu. Từ lúc đó, tôi không còn là tôi nữa. Tôi đã bị thôi miên đã bị bỏ bùa mê thuốc lú. Tôi hành động như một kẻ mộng du. Tôi loạng choạng đi về cuối phố. Mắt lấm lét nhìn trước nhìn sau xem có ai theo dõi không. Tôi đi sát vào mép hàng rào của các ngôi nhà nằm kế tiếp nhau, cái thấp cái cao, hơi dốc thoai thoải ra phía biển. Chợt có tiếng kẹt cửa khiến tôi thót tim đứng khựng lại. Từ ngôi nhà số 8, một chú mèo trắng khẽ lách mình ra và phóng vụt qua đường. Tiếp đó là những tiếng chí chóe của đám mèo hoang nghe cứ như đám trẻ con kêu khóc đòi mẹ giữa đêm khuya. Có thể, linh tính của đám thú vật đã đánh hơi thấy trước được mùi vị của xác chết phảng phất đâu đây? Vậy chỉ còn 5 ngôi nhà nữa là đến nơi. Tôi dừng lại để nghỉ vì tiếng tim đập thình thịch trong lồng ngực. Tôi hít một hơi thật sâu để trấn tĩnh và bụng bảo dạ: “ Không biết cha mình trong chiến tranh, ông nghĩ gì khi phải giết người lần đầu nhỉ? Còn đây là mình giúp người ta giải thoát khỏi nỗi đau, chính cô vợ đã van xin mình làm việc này cơ mà? Ý nghĩ này đã trả lại cho tôi sự bình tĩnh. Khi đã đứng đối diện với cánh cửa có treo chiếc chuông đồng, tôi cũng lấy làm ngạc nhiên vì sự bình thản đến lạnh lùng của mình. Đúng là cánh cửa không khóa. Một tiếng két khe khẽ vang lên khi tôi đẩy cánh cửa ra. Và, mặc dù trời tối nhờ nhờ song cũng đủ nhìn thấy chiếc hộp thư được gắn vào sau cánh cửa. Báng khẩu súng lục bằng thép lạnh ngắt như đánh thức trong tôi một sức mạnh nguyên thủy mơ hồ nào đó, khi con người còn ở thời ăn lông ở lỗ, phải săn bắn, thậm chí giết nhau để kiếm miếng ăn. Một mảnh trăng lạnh đột nhiên lẩn ra khỏi đám mây khiến màn đêm như được phủ một màn sương màu xanh nhạt lờ mờ, hư ảo. Các cửa sổ của căn nhà đều tối om. Tôi đã nhìn thấy cánh cửa ở bên trái như Galia căn dặn. Bảy bước chân không hơn không kém đã đưa tôi tới sát cánh cửa được ghép bằng những thanh gỗ bạch dương. Tôi nhẹ nhàng kéo cánh cửa ra và đứng nép vào một bên để lắng tai nghe động tĩnh. Hình như, có tiếng ai đó thở đều đều, rồi húng hắng ho ở trong bóng tối. “Ông ấy – tôi tự nhủ - ông ấy bị mù nên không thể nhìn thấy gì”. Tay trái tôi lần ra phía sau mép cửa để tìm công tắc điện, nhưng rồi lại thôi vì không muốn nhìn thấy con người mà mình kết liễu cuộc sống cho dù là cuộc sống tàn tật, tăm tối. Hơn nữa, từ nhỏ tôi rất sợ máu. Xác định được hướng của tiếng thở đều đều phát ra trong bóng tối, tôi từ từ nâng khẩu súng nặng trịch lên và… bóp cò!
Một tiếng cạch khô khốc của kim loại va đập vang lên và ánh điện bỗng bừng sáng. Tôi bị lóa mắt, ngớ người ra vì phải đối diện với một nòng súng đen ngòm cách mình khoảng năm mét. Chưa kịp hoàn hồn thì người đàn ông có râu quai nón đang ngồi trên chiếc xe lăn đã lên tiếng :
- Không đựơc động đậy. Để súng xuống chiếc bàn kia!
Tôi chợt hiểu, mình đã bị rơi vào tay của bọn lừa đảo.
Đúng lúc đó, Galia đẩy cánh cửa phía sau người đàn ông, bước vào. Tôi giật mình vì ánh mắt của cô ta lúc này. Con người nước mắt ngắn nước mắt dài mà tôi gặp hôm qua và con người đang lục soát túi tôi để lấy tiền bây giờ, hoàn toàn khác hẳn nhau.
- Còn giấu ở đâu không? Cô ta sẵng giọng hỏi.
- Một nghìn tiền cô đưa tôi, còn 2 nghìn còn lại là tiền hàng tôi bán được hôm qua, tất cả chỉ có vậy thôi – Tôi uất ức đến trào nước mắt.
- Để lại cho chàng thanh niên đẹp trai phương Đông tiền tàu đi khỏi thành phố này chứ! Người đàn ông khẽ nói, với vẻ đầy thân mật, tử tế của một con mèo đang vờn con chuột.
Galia ném ra bàn hai tờ mười rúp, rồi đi đến bên người đàn ông, ôm lấy cổ ông ta và hôn một cái rõ to vào má. “Anh của em bao giờ cũng rất cao thượng, thôi cho cậu ta về đi, không lại trễ tàu mất!”
- Em không đưa nhầm tiền giả đấy chứ?
- Nhầm sao được anh yêu, đây đâu phải con ruồi đầu tiên sa lưới?
Ra đến ngoài đường, tôi vẫn chưa hết bàng hoàng và không tin chuyện vừa xảy ra là sự thật. Tôi định báo công an vì tiếc tiền, nhưng lại thôi vì khó có ai tin được câu chuyện này.
“Cũng may là còn sống nguyên vẹn, của đi thay người” – tôi tự trấn an mình khi ngồi trên tàu điện ra ga. Đường phố đã lác đác người qua lại. Một ngày mới bắt đầu. Đến một bến đối diện với chiếc bốt điện thoại, tôi chợt nảy ra một ý định bất ngờ, vội chạy bổ ra cửa nhảy xuống khi tàu sắp chuyển bánh. Tôi săm săm bước vào bốt và quay ngay số điện thoại của đôi vợ chồng vô lại. Sau hai hồi chuông tút dài, bên kia đầu dây có người cầm máy.
- Alô, ai đấy?
Tôi nhận ngay ra giọng của gã đàn ông, bèn nói luôn một mạch: “Chắc vợ ông không tiện kể hết mọi chuyện. Cô ấy không chỉ thích tiền mà còn ham của lạ. Ông có biết cô ấy đã làm gì để thuyết phục đuợc tôi không? Tôi cũng không lấy làm tiếc lắm số tiền đã mất vì được một người đẹp như vợ ông…”.
Nói đến đây, tôi nghe thấy từ trong ống điện thoại vọng ra tiếng đập bàn, tiếng chửi tục và tiếng bát đĩa vỡ loảng xoảng…”.
Ông Khôi đang loay hoay móc túi trả tiền thì bà chủ quán ngăn lại:
- Ông nghĩ tôi không thể miễn phí được cho ông một bận hay sao, ông văn sĩ phường độc thân của tôi?
-----
Từ: VTH
Ngày: 17/5
Chủ đề: Góp vui
Chào anh, em thấy trang báo nhà mình lâu nay "đìu hiu" quá, nhân có truyện ngắn đăng trên VN cách đây không lâu, gửi các bác và các bạn cùng chia sẻ.
Chúc anh mọi sự như ý!
V.T.H
Ba phút của cuộc đời
Cuộc cãi vã đã ở mức thiếu chút nữa thì cả chân và tay cũng phải vào cuộc, nếu như ông Khôi không đứng dậy, giơ tay can hai ông bạn đã hơi quá chén. Bà chủ quán đứng thập thà thập thò ở cửa chỉ lo sợ cho bộ đồ ấm chén vô tội không biết có được vẹn toàn hay không.
- Hai ông đều có cái lý của mình. Một ông thì bảo: có thể và đôi khi cần phải giết người vì một lý tưởng cao cả nào đó như vì tổ quốc, vì sự công bằng, để bảo vệ kẻ yếu… còn ông kia lại nói: giết người dù dưới bất cứ chiêu bài nào cũng là tội ác, là hành vi đẩy con người xuống ngang tầm súc vật. Nhân đây, tôi xin kể với các ông câu chuyện của chính tôi khi mới ngoài 20 tuổi, đang là thợ học việc tại một xí nghiệp sản xuất giày da tại thành phố L. ở nước Nga xa xôi…
- Chuyện về nước Nga của ông tôi nghe mãi rồi, ông đã kể hàng trăm lần…
- Nhưng chuyện này tôi chưa kể cho ai bao giờ. Bởi vì nhân cái đề tài mà các ông đang bàn cãi, thì chính tôi đã vấp phải mà cho đến bây giờ tôi vẫn không thể lý giải nổi tâm lý cũng như hành vi của mình lúc đó. Tại sao tôi lại chấp nhận cái ý định giết người? Vì tiền hay vì bị một ma lực bí ẩn nào đó bủa vây xui khiến?
Bà chủ quán thầm cảm ơn ông Khôi vì đã cứu nguy cho đồ đạc của mình, mặt khác, bà cũng biết tài kể chuyện của ông khách thường xuyên này, nên đã tự tay bưng đến cho ông một ấm trà mới để lên bàn, rồi khe khẽ ngồi vào một chiếc ghế ở cách đó không xa, mặc dù làm ra vẻ giữ ý quay lưng lại nhưng đôi tai của bà căng ra như hai chiếc ăng ten mở hết công suất.
“ Đó là cái mùa hè mà tôi không thể quên được trong đời. Nhà máy phá sản, thất nghiệp, chạy lo ăn từng ngày, làm bất cứ công việc gì miễn là kiếm ra tiền. Cái dạ dày của tuổi hăm hai nó nghiền tất cả mọi loại thức ăn, những thứ đầu thừa đuôi thẹo, cũng vì thời gian này mà tôi mắc chứng đau dạ dày kinh niên. Đúng như kẻ chết đuối vớ được cọng rơm, một người anh hơn tuổi, cùng dân Hà Nội, thương tình cho cầm ít quần bò đi bán chui bán lủi ngoài chợ trời hay các đường ngầm trong thành phố. Hồi đó, buôn bán bị xem là hành vi rất xấu, có thể bị công an bắt giam mà chẳng cần tòa án. Một hôm, do suýt bị công an tóm và tịch thu toàn bộ số hàng, may mà ông anh đến kịp, hối lộ cho tay công an nên tôi được tha. Nhìn bộ dạng của tôi, ông anh vỗ vai an ủi:
- Anh khuyên chú đi xuống dưới vùng nghỉ mát Crum mà làm ăn, kiếm ít tiền giắt lưng về quê làm vốn. Chú cầm tất cả số hàng này đáp ngay tầu chiều mai xuống Mariopon. Ở đấy đông dân tứ xứ đến nghỉ mát ít ai để ý .
Phố chợ ở Crưm - tranh sơn dầu của Esaliev (Nguồn: Hoa Pham 108) |
- Ông nói điều này hơi nhiều lần rồi đấy ông Khôi ạ, ông cũng chẳng nhút nhát đâu đừng làm bộ rắn giả lươn, thôi được ông kể tiếp đi, vòng vo vừa vừa thôi, tốt nhất là đi thẳng vào chủ đề chính – Ông bạn ngồi bên trái vê một điếu thuốc lào và trước khi châm lửa, nói:
- Ông cứ làm người ta cụt hứng thế, đúng là ngồi nói chuyện với ông câu trước câu sau là thấy bực mình rồi – Ông bạn ngồi trước mặt có vẻ vẫn còn cay cú chưa nguôi ngoai vì trận cãi nhau vừa qua, cho một chân lên ghế, rồi uống nốt chút rượu trắng còn sót lại dưới đáy cốc.
“Thì cũng phải có khung cảnh cho nó sinh động chứ! Kể về nước Nga mà không có thiên nhiên, khung cảnh, thì chẳng khác gì diễn kịch không có sân khấu, phông màn… Ngày đầu tiên trôi qua suôn sẻ, thậm chí có thể nói là may mắn. Hàng bán hết sạch. Sáng hôm sau, tôi phải đáp chuyến tàu 4 giờ sáng trở về thành phố để lấy thêm hàng. Tôi cảm thấy phấn chấn trong người đến mức không thèm ăn món bánh rán nhân thịt (tiếng Nga gọi là Cheburek) ở tại chợ, mà quyết định vào một tiệm Café ở gần bờ biển để tự thưởng cho mình một bữa ra trò. Tôi ngồi xuống chiếc bàn cạnh cửa sổ nhìn ra biển. Ánh mắt như dán vào những cặp chân trần rám nắng của các thiếu nữ đang đi dạo dọc theo kè đá. Thật là một bức tranh phong cảnh tuyệt tác. Không rõ từ đâu, một thiếu nữ đi ngang qua cửa sổ và đẩy cửa quán bước vào. Ánh sáng từ ngoài hắt xuyên qua bộ áo váy mỏng tang để lộ một thân hình tuyệt vời, những đường cong gợi cảm. Cô nhìn quanh cả gian một lượt như có ý muốn tìm chỗ ngồi, và thật bất ngờ, cô tiến lại phía bàn tôi cất tiếng hỏi:
- Chỗ này còn trống không?
- Tất nhiên... còn nhiều chỗ trống chứ - Tôi hơi ấp úng trả lời và ánh mắt tôi lướt nhanh xuống đôi bàn tay đang cầm chiếc túi xách. Tôi có một thói quen khi gặp phụ nữ hay để ý đến bàn tay của họ. Bàn tay người phụ nữ có thể nói lên nhiều điều hơn chính khuôn mặt họ. Bàn tay không thể dối trá và che đậy.
Cô ta ngồi xuống gần như đối diện với tôi và hướng đôi mắt xanh biếc của mình vào tôi khiến lưng nổi da gà. Sau này nhớ lại, tôi mới hiểu là mình bị chính ánh mắt vừa quyến rũ vừa đầy quyền lực đó thôi miên. Cô ta tầm tuổi như tôi, có thể là lớn hơn một chút. Mái tóc vàng óng ả như một mảng nắng lõa xõa xuống hai bờ vai trắng nõn. Điều này chứng tỏ cô là người sống ở đây hoặc mới đến vùng nghỉ mát này. Người hầu bàn mang đến thực đơn và đặt xuống bàn. Cô không xem mà chỉ gọi mua một cốc nước nho giải khát, rồi rút cuốn tạp chí từ trong chiếc túi xách màu hồng ra đọc. Tôi vừa ăn vừa ngắm vẻ đẹp của khuôn mặt cũng như bộ ngực nở căng dưới làn áo mỏng. Đúng lúc tôi ăn xong thì cô ngẩng mặt lên khỏi trang họa báo và lên tiếng hỏi bằng cái giọng nhỏ nhẹ, rất êm tai:
- Anh đi nghỉ một mình thôi sao? Không buồn à?
- À không, tôi đi làm… Tôi cũng chỉ ở đây vài ngày thôi.
- Nếu anh không bận, chúng ta cùng nhau đi dạo một lát dọc bờ biển, tôi sống ở đây nên chắc cũng có thể giới thiệu với anh đôi điều về thành phố nghỉ mát này...
Một ý nghĩ ập tới trong đầu: đích thị là một ả gái điếm. Chỉ có loại gái ấy mới tự làm quen một cách bạo dạn như vậy với người nước ngoài. Nhưng quả thật, tôi đã bị đôi mắt và thân hình cô hút mất hồn. Vả lại từ giờ cho đến khi về nhà trọ để ngủ còn những năm sáu tiếng nữa, tôi cũng chẳng biết làm việc gì trong cái thành phố xa lạ này, giữa một khung cảnh thiên nhiên tràn đầy nhựa sống, nắng và gió biển kích thích dòng máu trong con người ta chạy mạnh hơn…
- Anh đến đất nước chúng tôi lâu chưa mà nói tiếng Nga khá vậy? Hai chúng tôi đi ngang qua đường và rảo bước về phía bậc thang bằng đá trắng dẫn xuống ngay sát mép nước.
- Mới ba năm thôi, nhưng tôi yêu thích ngôn ngữ này nên cũng chịu khó học.
- Chúng ta đi về phía gần bến canô kia đi, ở đó vắng người hơn. Tôi không thích những ánh mắt của mọi người nhìn chúng ta, cứ như thể anh là người hành tinh khác đến vậy.
Quả thật, tôi không thể ngờ rằng chuyến đi bán hàng của tôi lại được tô điểm bởi một cô gái đẹp, giữa một khung cảnh thơ mộng như thế này. Tôi hầu như chỉ đi trong im lặng, tận hưởng những âm thanh phát ra từ đôi môi xinh xắn, tận hưởng những cái động chạm vô tình khi cô né tránh những cậu thanh niên choai choai phóng xe đạp bạt mạng ngược về hướng chúng tôi. Ánh mắt tôi lúc thì nhìn thẳng vào đôi mắt xanh của cô, lúc lại hướng ra mặt biển cũng xanh hoặc nhìn bầu trời lại càng xanh hơn, bát ngát mênh mông. Mấy cánh buồm trắng thoắt ẩn thoắt hiện ở đường chân trời. Sóng biển vỗ ì ầm vào bờ đá hay sóng trong lòng tôi đây? Hai chúng tôi đi hẳn ra ngoài cầu tầu nơi những chiếc canô, thuyền máy, thuyền buồm thể thao đang dập dình neo đậu. Một người thợ máy quay đầu lại nhìn chúng tôi, những đường cơ bắp ở lưng nổi lên cuồn cuộn, bóng loáng mồ hôi.
- Mà anh cũng chưa giới thiệu tên cho tôi? Tôi là Galia.
- Tên tiếng Nga của tôi là Xaxa.
- Anh hợp với cái tên này đấy. Anh có biết cái tên cũng rất ảnh hưởng đến số phận con người không?
- Tên của cô thì sao? Nó có nói lên điều gì về số phận của cô không?
Cô không trả lời. Đột nhiên, khuôn mặt của cô gái thay đổi và trở nên u ám. Hình như, cô đang vương vấn một điều gì đó khó nói. Hai chúng tôi im lặng. Chỉ có tiếng kêu của mấy con chim hải âu đang giỡn nhau trên sóng.
Bất ngờ, Galia nắm chặt lấy tay tôi và nói bằng một giọng đầy xúc động:
- Anh có thể giúp tôi một việc hệ trọng được không?
- Chuyện gì vậy? Tại sao lại là tôi? Một người cô mới gặp cách đây chưa đầy một giờ đồng hồ?
- Phải, chỉ có anh mới giúp được tôi. Vì anh không phải là người ở đây.
Bàn tay cô vẫn nắm chặt tay tôi. Tôi như cảm nhận được một luồng điện truyền qua đó. Mùi nước hoa từ người cô khiến tôi chếnh choáng.
- Tôi đã có chồng. Anh ấy là thợ mỏ. Năm ngoái, anh ấy bị tai nạn hầm lò, bị liệt toàn thân và mù hoàn toàn…
- Thật bất hạnh cho cô – Tôi thốt lên và cảm thấy một nỗi thương cảm bỗng trào dâng trong lòng. Đồng thời, tôi cũng tự trách chính bản thân mình quá hồ đồ khi nghĩ cô là một con điếm.
- Thế cô muốn tôi giúp gì?
- Anh có thể giúp cho anh ấy, giải phóng cho anh ấy khỏi những đau đớn dày vò thường xuyên…
- Bằng cách nào? Tôi ngạc nhiên hỏi lại.
Galia không trả lời thẳng vào câu hỏi mà hấp tấp mở túi xách của mình rút ra một… khẩu súng lục.
Tôi choáng váng không tin ở mắt mình. Hoặc là tôi mất trí hoặc là người phụ nữ này đã phát điên.
- Giết... giết… chồng cô? Miệng tôi líu lại.
Galia khẽ gật đầu và cô òa khóc tức tưởi.
- Chính anh ấy muốn thế, anh ấy muốn giải phóng, anh ấy không muốn là một gánh nặng…
Tôi giật tay mình ra khỏi bàn tay của cô ta và hét lên:
- Không bao giờ! Cô nhầm rồi! Tại sao cô không tự làm? Tại sao cô không nhờ ai khác mà lại chính tôi?
Galia cho khẩu súng vào trong túi và rút từ đấy ra một xấp tiền dày.
- Nếu tôi tự làm được thì đã không phải nhờ đến anh. Tôi yêu chồng tôi nên tôi không thể chứng kiến hơn được nữa những đau đớn mà anh ấy phải chịu đựng trong nhiều tháng nay. Anh ấy hàng ngày, hàng giờ van xin tôi làm việc này. Anh có hiểu không? Anh là người hoàn toàn xa lạ, từ một nước khác đến, anh chỉ làm việc này trong 3 phút, rồi anh đi khỏi đây mãi mãi, không ai biết anh là ai. Hơn nữa, tôi sẽ trả hậu hĩnh cho anh, đây là số tiền thù lao tám ngàn rúp! Nhà tôi ở cách đây không xa? Anh hành động xong, ra tàu và chúng ta không bao giờ còn gặp lại nhau nữa trên cõi đời này.
Tôi thực sự chẳng khác gì người bị cấm khẩu, chỉ biết nhìn cô gái mới quen bằng một ánh mắt thất thần.
- Đây là điện thoại nhà tôi, anh cứ suy nghĩ kỹ đi, nếu đồng ý, anh gọi điện cho tôi. Còn đây là một nghìn rúp anh cứ cầm trước – Cô đút vào túi áo ngực tôi một xếp tiền – nếu xong việc, anh sẽ nhận nốt phần còn lại trước khi ra tàu.
Nói đến đây, cô hôn nhẹ vào má tôi một cái và rảo bước quay trở lại. Một mình tôi đứng thẫn thờ trên cầu tàu, toàn thân rã rời vì rơi vào một tình huống quá sức tưởng tượng. Tôi cứ nhìn theo mãi cái dáng dong dỏng cao, cân đối của người phụ nữ có cái tên Galia đang đi xa dần, xa dần và hòa vào dòng người tấp nập trên bờ biển.
Suốt đêm tôi không chợp mắt được. Hình ảnh cô gái với khuôn mặt đầy nước mắt cứ chập chờn trứơc mặt. Chả nhẽ bộ mặt thật của tình yêu lại sù sì và ghê gớm đến như vậy sao? Hay chỉ những người phụ nữ Nga mới dám hành động như vậy? Tôi bỗng nghĩ đến mẹ mình và các em gái ở nhà. Bố tôi đã từng là một dũng sĩ diệt Mỹ và hy sinh trong dịp Tết Mậu Thân, mẹ tôi ở vậy nuôi bốn anh em chúng tôi. Trên thực tế, tôi đã gánh vác trách nhiệm của người cha trong gia đình. Với số tiền tám ngàn rúp tôi có thể mua được một ngôi nhà khang trang cho cả gia đình, để thoát cảnh sống chen chúc trong một nhà xe được cải tạo lại thành nhà ở trong khu lao động Tương Mai.
“Anh làm việc này là để cứu anh ấy, giải phóng cho anh ấy khỏi những đau đớn” - câu nói đó của Galia cứ lặp đi lặp lại trong đầu tôi và chính chúng đã dựng tôi dậy khỏi giường vào lúc 3 giờ sáng. Tôi quyết định ra ga sớm hơn một chút để gọi điện trả lại tiền cho Galia. Cô ấy nói sống ở đâu đó gần đây thôi. Bên ngoài cửa sổ vẫn tối đen, thỉnh thoảng từ phía biển đưa lại tiếng máy tàu lịch sịch. 4 giờ sáng tôi phải ra tàu đi về L. Còn gần một tiếng nữa. Mẩu giấy ghi điện thoại để trên chiếc bàn ở đầu giường. Tôi đi đi lại lại trong phòng không biết bao nhiêu lần. “Sẽ không một ai biết được việc này – tôi thầm nghĩ – nhưng đây là một hành động giết người? Nhất quyết mình không thể làm nổi, không thể đang tâm giơ súng lên nhằm vào một con người dù anh ta mong muốn điều đó. Nhưng thôi, mình cũng phải trả lại số tiền một nghìn rúp này cho cô ấy”. Tôi khép cánh cửa lại, cố không để gây ra tiếng cót két và rón rén đi ra ngoài. Không một bóng người, chỉ có mấy con chó chắc đói ăn đi tha thẩn gần chỗ đổ rác thải của dân đi nghỉ. Tôi đi tới bốt điện thoại ở gần bến xe buýt. Đến gần mới nhìn thấy một tay vô gia cư đang ngủ ngồi trong đó. Hắn khóa chốt bên trong lại và yên trí ngáy pho pho. Ánh đèn đường chiếu rõ khuôn mặt râu ria lởm chởm. Tôi đập mạnh vào cửa kính và lấy tay ra hiệu ý muốn gọi điện thoại. Gã kia choàng tỉnh, lầu bầu văng tục và đẩy cửa bước ra. Mùi hôi từ người gã phả ra khiến tôi muốn ói. Gã khênh khạng đi đến bên gốc cây và đái tồ tồ, miệng phát ra những âm thanh có vẻ giống như một bài hát. Tôi giữ cửa bốt điện thoại mở một lúc cho thoáng, rồi đóng sập lại sau lưng. Ngón tay trỏ của tôi hấp tấp quay số. Đồng kopek rơi xuống leng keng trong hộp điện thoại khiến tôi giật mình. Những tiếng tút dài mới ghê rợn làm sao! Đầu dây bên kia đã có người nhấc máy. Im lặng mấy giây.
- Alô, Galia có phải không? Tôi khẽ nói như sợ xung quanh có ai đó nghe thấy, mặc dù chẳng có ma nào. Gã vô gia cư đã thất thểu đi khuất vào sau bên xe.
- À, anh đấy à? Sao? Thế nào? Giọng nói quen thuộc lúc chiều vang lên trong ống nghe.
- Tôi… Tôi…
- Anh đồng ý rồi phải không? Ngay bây giờ là tốt nhất. Anh nghe đây. Tôi ở cuối con phố mà anh thuê nhà trọ. Nhà số 13, ngoài cổng có treo một chiếc chuông bằng đồng. Anh không cần phải bấm chuông vì tôi sẽ mở cổng ngay bây giờ. Khẩu súng tôi để ngay sau cánh cửa ra vào, trong hộp đựng thư. Súng giảm thanh và đạn đã lên nòng anh không phải lo lắng. Căn phòng nơi chồng tôi nằm ở bên trái. Anh hành động xong, dùng báng súng đập vỡ cánh cửa để làm như một vụ cướp, rồi đi khỏi đây luôn. Tôi chờ anh ở bến xe cuối phố và anh sẽ nhận được số tiền bảy nghìn còn lại. Anh hãy vất khẩu súng xuống biển… Sao? Sao anh im lặng vậy? Anh hãy giúp chúng tôi, tôi van anh!
Có tiếng khóc thút thít ở đầu dây bên kia.
- Liệu ba phút có kịp không?
Tôi bất ngờ với câu hỏi của chính mình, không hiểu trời xui đất khiến thế nào lại thốt ra câu đó. Như vậy là tôi đã đồng ý, mà trong thâm tâm không hề muốn làm việc này. Mục đích tôi gọi điện là để trả lại tiền chứ có phải đồng ý với ý định của cô ấy đâu. Từ lúc đó, tôi không còn là tôi nữa. Tôi đã bị thôi miên đã bị bỏ bùa mê thuốc lú. Tôi hành động như một kẻ mộng du. Tôi loạng choạng đi về cuối phố. Mắt lấm lét nhìn trước nhìn sau xem có ai theo dõi không. Tôi đi sát vào mép hàng rào của các ngôi nhà nằm kế tiếp nhau, cái thấp cái cao, hơi dốc thoai thoải ra phía biển. Chợt có tiếng kẹt cửa khiến tôi thót tim đứng khựng lại. Từ ngôi nhà số 8, một chú mèo trắng khẽ lách mình ra và phóng vụt qua đường. Tiếp đó là những tiếng chí chóe của đám mèo hoang nghe cứ như đám trẻ con kêu khóc đòi mẹ giữa đêm khuya. Có thể, linh tính của đám thú vật đã đánh hơi thấy trước được mùi vị của xác chết phảng phất đâu đây? Vậy chỉ còn 5 ngôi nhà nữa là đến nơi. Tôi dừng lại để nghỉ vì tiếng tim đập thình thịch trong lồng ngực. Tôi hít một hơi thật sâu để trấn tĩnh và bụng bảo dạ: “ Không biết cha mình trong chiến tranh, ông nghĩ gì khi phải giết người lần đầu nhỉ? Còn đây là mình giúp người ta giải thoát khỏi nỗi đau, chính cô vợ đã van xin mình làm việc này cơ mà? Ý nghĩ này đã trả lại cho tôi sự bình tĩnh. Khi đã đứng đối diện với cánh cửa có treo chiếc chuông đồng, tôi cũng lấy làm ngạc nhiên vì sự bình thản đến lạnh lùng của mình. Đúng là cánh cửa không khóa. Một tiếng két khe khẽ vang lên khi tôi đẩy cánh cửa ra. Và, mặc dù trời tối nhờ nhờ song cũng đủ nhìn thấy chiếc hộp thư được gắn vào sau cánh cửa. Báng khẩu súng lục bằng thép lạnh ngắt như đánh thức trong tôi một sức mạnh nguyên thủy mơ hồ nào đó, khi con người còn ở thời ăn lông ở lỗ, phải săn bắn, thậm chí giết nhau để kiếm miếng ăn. Một mảnh trăng lạnh đột nhiên lẩn ra khỏi đám mây khiến màn đêm như được phủ một màn sương màu xanh nhạt lờ mờ, hư ảo. Các cửa sổ của căn nhà đều tối om. Tôi đã nhìn thấy cánh cửa ở bên trái như Galia căn dặn. Bảy bước chân không hơn không kém đã đưa tôi tới sát cánh cửa được ghép bằng những thanh gỗ bạch dương. Tôi nhẹ nhàng kéo cánh cửa ra và đứng nép vào một bên để lắng tai nghe động tĩnh. Hình như, có tiếng ai đó thở đều đều, rồi húng hắng ho ở trong bóng tối. “Ông ấy – tôi tự nhủ - ông ấy bị mù nên không thể nhìn thấy gì”. Tay trái tôi lần ra phía sau mép cửa để tìm công tắc điện, nhưng rồi lại thôi vì không muốn nhìn thấy con người mà mình kết liễu cuộc sống cho dù là cuộc sống tàn tật, tăm tối. Hơn nữa, từ nhỏ tôi rất sợ máu. Xác định được hướng của tiếng thở đều đều phát ra trong bóng tối, tôi từ từ nâng khẩu súng nặng trịch lên và… bóp cò!
Một tiếng cạch khô khốc của kim loại va đập vang lên và ánh điện bỗng bừng sáng. Tôi bị lóa mắt, ngớ người ra vì phải đối diện với một nòng súng đen ngòm cách mình khoảng năm mét. Chưa kịp hoàn hồn thì người đàn ông có râu quai nón đang ngồi trên chiếc xe lăn đã lên tiếng :
- Không đựơc động đậy. Để súng xuống chiếc bàn kia!
Tôi chợt hiểu, mình đã bị rơi vào tay của bọn lừa đảo.
Đúng lúc đó, Galia đẩy cánh cửa phía sau người đàn ông, bước vào. Tôi giật mình vì ánh mắt của cô ta lúc này. Con người nước mắt ngắn nước mắt dài mà tôi gặp hôm qua và con người đang lục soát túi tôi để lấy tiền bây giờ, hoàn toàn khác hẳn nhau.
- Còn giấu ở đâu không? Cô ta sẵng giọng hỏi.
- Một nghìn tiền cô đưa tôi, còn 2 nghìn còn lại là tiền hàng tôi bán được hôm qua, tất cả chỉ có vậy thôi – Tôi uất ức đến trào nước mắt.
- Để lại cho chàng thanh niên đẹp trai phương Đông tiền tàu đi khỏi thành phố này chứ! Người đàn ông khẽ nói, với vẻ đầy thân mật, tử tế của một con mèo đang vờn con chuột.
Galia ném ra bàn hai tờ mười rúp, rồi đi đến bên người đàn ông, ôm lấy cổ ông ta và hôn một cái rõ to vào má. “Anh của em bao giờ cũng rất cao thượng, thôi cho cậu ta về đi, không lại trễ tàu mất!”
- Em không đưa nhầm tiền giả đấy chứ?
- Nhầm sao được anh yêu, đây đâu phải con ruồi đầu tiên sa lưới?
Ra đến ngoài đường, tôi vẫn chưa hết bàng hoàng và không tin chuyện vừa xảy ra là sự thật. Tôi định báo công an vì tiếc tiền, nhưng lại thôi vì khó có ai tin được câu chuyện này.
“Cũng may là còn sống nguyên vẹn, của đi thay người” – tôi tự trấn an mình khi ngồi trên tàu điện ra ga. Đường phố đã lác đác người qua lại. Một ngày mới bắt đầu. Đến một bến đối diện với chiếc bốt điện thoại, tôi chợt nảy ra một ý định bất ngờ, vội chạy bổ ra cửa nhảy xuống khi tàu sắp chuyển bánh. Tôi săm săm bước vào bốt và quay ngay số điện thoại của đôi vợ chồng vô lại. Sau hai hồi chuông tút dài, bên kia đầu dây có người cầm máy.
- Alô, ai đấy?
Tôi nhận ngay ra giọng của gã đàn ông, bèn nói luôn một mạch: “Chắc vợ ông không tiện kể hết mọi chuyện. Cô ấy không chỉ thích tiền mà còn ham của lạ. Ông có biết cô ấy đã làm gì để thuyết phục đuợc tôi không? Tôi cũng không lấy làm tiếc lắm số tiền đã mất vì được một người đẹp như vợ ông…”.
Nói đến đây, tôi nghe thấy từ trong ống điện thoại vọng ra tiếng đập bàn, tiếng chửi tục và tiếng bát đĩa vỡ loảng xoảng…”.
Ông Khôi đang loay hoay móc túi trả tiền thì bà chủ quán ngăn lại:
- Ông nghĩ tôi không thể miễn phí được cho ông một bận hay sao, ông văn sĩ phường độc thân của tôi?
Vũ Tuấn Hoàng
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)