19/11/09

Cối xay gió quay về hướng nào?

TTST BND: Kỳ trước, ở phần đầu bài "Paris xanh muôn thủa", chúng tôi đã giới thiệu đôi nét về cây bút Vũ Tuấn Hoàng, một thành viên của TTST BND. Xin đăng lại một bức ảnh chụp từ 1967 đã từng được đưa trên blog trước đây (trong bài Ảnh mới từ Đặng Hoàng Nam và bài Kỷ niệm của Lê Thanh Nga), để chúng ta dễ nhận ra Vũ hơn so với bức ảnh mới được chụp năm 2008, mà hnv.vn đăng cùng bài (ảnh dưới).

Trân trọng thành tựu của bạn bè cũ, chúng tôi mời các bạn tiếp tục chuyến du lịch châu Âu hấp dẫn, ở một nơi đất bằng thấp hơn mực nước biển, nơi người ta được sống giữa những kiệt tác hội họa, với sự dẫn dắt của một người viết rất hóm hỉnh. Có vài ba lỗi chính tả cũng khá ngộ được giữ nguyên như trong bài gốc đã đăng trên web của Hội Nhà Văn VN, không biết do đánh máy vội hay do ít dùng hàng Việt. :-)
-
Đất nước Hà Lan - Cối xay gió quay về hướng nào?
(hoinhavanvietnam.vn 11/3/2009 9:34:47 AM )


Vũ Tuấn Hoàng

I

   Có một số rất hiếm nghệ sĩ mà tên tuổi bao trùm lên cả đất nước nơi họ đã sinh ra. Hơn nữa, họ còn bành trướng ra khắp năm châu, phá bỏ mọi đường biên giới, mọi thể chế chính trị mọi qui ước thời gian, chỉ bằng những vũ khí rất hoà bình là màu sắc, âm thanh và ngôn từ.   Mục đích của họ không phải là đất đai, không phải là tài nguyên mà là tâm hồn con người. Một trong những nhà chinh phục thế giới đó là danh hoạ Vincent Van Gogh của đất nước Hà Lan, một đất nước mà chỉ cần nhìn loang loáng qua cửa sổ của con tàu đang băng mình xuyên qua các cánh đồng cỏ bát ngát điểm xuyến bởi những chú bò sữa nhởn nhơ gặm cỏ, những cánh rừng xanh mướt lung linh dưới ánh nắng mặt trời chớm thu, trái tim bạn chợt thổn thức, đập gấp gáp trong lồng ngực và tự nhủ thầm rằng, sống trong một khung cảnh thiên nhiên tuyệt vời như thế kia không trở thành nghệ sĩ mới là một điều hổ thẹn! Tôi chợt nhớ tới lời quảng cáo của hãng hàng không Hà Lan KLM Royal Dutch Airline tại sân bay Amstedam   “ Most people only get visit great works of art…The Dutch get to live in one ” Tạm dịch là : Con người ta hầu như chỉ thích được tham quan chiễm ngưỡng những tác phẩm vĩ đại của nghệ thuật...Người Hà Lan sống giữa những kiệt tác đó ”.
    Đứng giữa phòng tranh rộng mênh mông của toà nhà Bảo tàng Van Gogh , nơi luôn luôn nườm nượp khách thập phương đủ các màu da đủ các thành phần xã hội đến chiêm ngưỡng với tấm lòng thành kính như tới một thánh đường, tôi trộm nghĩ nếu Hà Lan chỉ là một ốc đảo khô cằn, nghèo đói nhưng sản sinh ra được Van Gogh thì cũng đã đủ tư cách là một cường quốc về nghệ thuật và văn hoá. Ở cái tầm như ông thì nhân loại sắn sàng bỏ qua cho tất cả, tha thứ tất cả những thói hư tật xấu, những cái lập dị khác người của ông…hay nói một cách nôm na là bỏ qua những vết bùn bẩn bám trên một viên ngọc trai quí hiếm. Khi tôi tận mắt được nhìn thấy những bức tranh nguyên bản, thậm chí sờ vào lớp sơn dầu sần sùi ( tất nhiên là sờ… trộm thôi) của những kiệt tác đáng giá hàng  сhục triệu đôla như        “ Phòng ngủ tại Aple.1889” hay “Hoa hướng dương”, “ Van Gogh cắt tai”…những bức tranh về hoa anh đào Nhật Bản…thì bỗng một ý nghĩ chợt vụt đến trong đầu tôi,   rằng cái ma lực của các kiệt tác không phải từ bức tranh toát ra mà là một cái gì đấy đã được chuẩn bị từ trước, gim giữ trong đầu người xem tranh từ lâu lắm rồi, trước khi họ bước chân qua ngưỡng cửa của bảo tàng. Nếu cũng những bức tranh này nhưng đựơc ký dưới một cái tên khác, trong một khung cảnh khác, chắc chắn không có được cái ma lực như vậy. Ý nghĩ bất chợt ấy của tôi được lý giải bởi qua trình tìm hiểu chính tiểu sử bản thân con người Van Gogh và một huyền thoại được chủ ý tạo dựng nên xung quanh tên tuổi này tại nhà bảo tàng. Từ trước tới nay, người ta vẫn xem ông là một thiên tài cô đơn, thần kinh không bình thường, một kẻ khổ hạnh không nghĩ gì tới vinh quang và tiền bạc. Con người mà công chúng biết tới và con người thật, mới khác nhau làm sao! Hình tượng mà mọi người đã quen này chỉ là một huyền thoại nhằm một mục đích duy nhất là đánh bóng tên tuổi Van Gogh, đồng nghĩa với việc làm cho tranh của ông bán chạy mà thôi. Chỉ có một sự thật duy nhất mà huyền thoại và con người thật gặp nhau đó là Van Gogh bắt tay vào hoạt động hội hoạ khi đã đứng tuổi. Tại bảo tàng Van Gogh, lần đầu tiên tôi được biết tới cái tên Meier Grefe - một nhà nghiên cứu nghệ thuật và buôn bán tranh của Đức. Bức tranh cũ kỹ ố vàng chụp ông đứng bên cạnh các hoạ phẩm của Van Gogh cho thấy đó là một người đàn ông có đôi mắt thông minh, pha chút ranh mãnh. Ông là người đầu tiên hiểu ngay ra được cái tầm và tiềm năng thương mại to lớn của tranh Van Gogh. Năm 1893, Meier Grefe mua bức tranh “ Đôi uyên ương” đầu tiên của Van Gogh cho bảo tàng tranh của mình tại Đức và nghĩ cách quảng cáo cho món hàng này. Vốn có tài viết lách, ông quyết định tái tạo lại tiểu sử của Van Gogh sao cho thật hấp dẫn đối với các nhà sưu tầm tranh và khách hàng nói chung.Vì chưa gặp được con người bằng xương bằng thịt Van Gogh, nên ông không bị những ấn tượng cá nhân chi phối. Vả lại, Van Gogh sinh ra và lớn lên tại Hà Lan, sau đó tu nghiệp và thành danh tại Pháp. Còn ở Đức, nơi mà Meier Grefe đang ấp ủ ý định tạo dựng huyền thoại về danh họa, thì chẳng ai biết đến Van Gogh. Ông có thể mặc sức phóng bút vẽ lên chân dung hoạ sĩ, có thể nói là trên một tờ giấy trắng tinh. Song, ông không phải ngay lập tức đã tìm thấy ngay hình tượng “thiên tài cô độc và bị bệnh thần kinh” như mọi người chúng ta vẫn biết bây giờ. Thoạt tiên, Van Gogh của Meier là một con người “ khoẻ mạnh cường tráng, từ nhân dân mà ra”. Còn sáng tác của ông là  “sự hài hoà giữa nghệ thuật và cuộc sống” . Song, hình tượng này bị lụi tàn ngay sau đó mấy năm. Không nản chí, nhà nghiên cứu nghệ thuật người Đức tiếp tục cho ra mắt một Van Gogh khác - một họa sĩ có tính cách nổi loạn chống lại các giáo điều trong nghệ thuật Hàn lâm. Hình tượng này chỉ sống được trong một nhóm người không đông và lại gây sợ hãi cho đại chúng. Chỉ sau khi thay đổi hướng đi đến lần thứ ba, hình tượng Van Gogh mới thành công và sống cho đến tận bây giờ. Cái mấu chốt quan trọng nhất trong tiểu sử của Van Gogh liên quan tới cái tai bị cắt và tâm lý sáng tạo không bình thường có gì đấy bệnh hoạn, đã nâng cái con người nhỏ bé, gương mặt hiền lành pha chút nữ tính lên tầm cao của một thiên tài. Lịch sử xung quanh cái tai mang đầy màu sắc huyền thoại này hoá ra chỉ là một sự kiện rất nhỏ : theo như kết luận của pháp y thì ông bị tổn thương chỉ một mẩu dái tai chứ không phải toàn bộ cái tai “ đến sát gốc” như mọi người được biết. Còn ai là thủ phạm? thì sau này người ta đã chứng minh là trong một cuộc cãi vã với danh hoạ Gôganh, một tay lão luyện trong các cuộc ẩu đả từ thời còn làm thuỷ thủ, đã vung tay cào vào tai ông bạn đồng nghiệp. Sau này để biện hộ cho hành động của mình Gôganh đã phịa ra cái giai thoại là Van Gogh trong một cơn điên đã đuổi theo ông với chiếc dao cạo trong tay và sau đó là tự cắt tai mình.
      Con người thật của Van Gogh hoàn toàn không giống chút gì với con người mà chúng ta được biết. Ông tốt nhiệp một trường tư nổi tiếng, nói thông thạo ba ngoại ngữ, đọc rất nhiều. Đứng đằng sau ông là cả một gia đình lớn, sống dư giả bằng các nguồn lợi buôn bán nghệ thuật, đồ cổ, luôn luôn sắn sang giúp đỡ ông bất cứ lúc nào. Bản thân Van Gogh là một con người luôn tỉnh táo và thực tế. Ông nhiều năm đã lăn lộn trong môi trường buôn bán tranh và tạo dựng được một doanh nghiệp khá đồ sộ. Ở vào tuổi 27, khi đằng sau lưng đã có bề dày vững chắc về lịch sử và lý thuyết nghệ thuật, Van Gogh bắt tay vào học nghề vẽ tại các trường hội hoạ danh tiếng nhất của Hà Lan, Bỉ và Pháp. Tranh của ông được vẽ trên các loại vải toan và thuốc màu tốt nhất thời bấy giờ do người em trai cũng cấp nên chất lượng vẫn còn rất tốt cho đến ngày hôm nay.  
   Huyền thoại về một Van Gogh lúc sống không được người đời công nhận, tranh không bán được…hoàn toàn do óc tưởng tượng của Meier Grefe tạo nên. Trên thực tế, Van Gogh cũng như một con người bình thường khác, mong muốn đựơc công nhận lúc đang sống và một trong những biểu hiện của sự thừa nhận đó là tiền bán tranh. Bình sinh vốn là một tay buôn bán đồ cổ và tranh có hạng, ông biết cách làm thế nào để đạt được điều này. Trong bảo tàng có trưng bày rất nhiều các bức thư trao đổi giữa Van Gogh và em trai Teo - một thương gia buôn bán nghệ thuật tầm cỡ. Nội dung chính của các bức thư đó hoàn toàn không phải là cái gì cao siêu viển vông, huyền bí mà làm cách nào để bán được nhiều tranh hơn nữa, loại tranh nào tìm đựơc con đường ngắn nhất tới trái tim khách hàng. “ Không có gì giúp chúng ta bán được tranh chạy nhất bằng sự công nhận những bức tranh đó là loại tranh tốt nhất, đẹp nhất để trang trí cho các ngôi nhà của tầng lớp trung lưu” . Đó là kết luận của hai anh em nhà Van Gogh. Từ đây, những bức tranh có màu sắc ảm đạm ( được bài trí hai gian rộng đầu tiên của bảo tàng) hay còn gọi là giai đoạn “hội hoạ nông dân” của Van Gogh kết thúc, một phong cách vẽ mới ra đời với những bức tranh màu sắc rực rỡ, mặt trời chói lọi, ánh sang tràn ngập, vũ hội …Đầu óc thương mại tinh tế của hai anh em đã điểm trúng huyệt : Công chúng không sớm thì muộn sẽ đánh giá cao thể loại tranh này. Năm 1890, tại một cuộc triển lãm tranh tại Bỉ, Van Gogh đã bán được bức tranh “ cánh đồng nho đỏ” với giá 400 frank, bước đột phá vào thế giới của các danh họa có giá đương thời. Ông viết cho em trai của mình “ Con cừu đầu tiên đã đi qua được cầu ” . Theo những tài liệu còn lưu giữ lại được, ông đã bán 14 bức tranh, còn trên thực tế số lượng tranh bán còn nhiều hơn nhưng không có chứng từ lưu giữ. Ông không hề bao giờ là một hoạ sĩ ẩn dật mà luôn luôn đi giữa, sóng bước cùng với các hoạ sĩ tân tiến nhất của thời đại mình. Ông là hoạ sĩ thường xuyên có tranh triển lãm tại các phòng tranh sáng giá nhất Paris.
   Dưới ngòi bút của Meier Grefe, các tác phẩm và con người Van Gogh đã trở nên thần bí mang màu sắc của một tôn giáo mới. Tháng 4 năm 1932 tại Berlin đã diễn ra một phiên toà đặc biệt để xét xử vụ làm giả tranh Van Gogh. Tại đây, một chuyên gia về tranh của ông đã lớn tiếng biện minh cho kẻ làm giả bằng một câu nổi tiếng : “ Làm sao các ngài biết được, liệu sau khi chết linh hồn của Van Gogh có nhập vào ai đó để tiếp tục sáng tạo cho đến bây giờ hay không? ”
     Tác giả của huyền thoại chết đi, song huyền thoại vẫn sống. Chính trên mảnh đất đã được tái tạo này, nhà văn Mỹ Irvinh Stoyn năm 1934 đã viết lên bộ tiểu thuyết tuyệt vời “ Khát vọng sống”, sau chuyển thể thành phim đoạt giải Oscar và gim chặt vào trong trí óc của hàng triệu triệu người về một hình tượng thiên tài mất trí, khoác lên mình mọi nỗi đau khổ, bất hạnh của trần thế. Còn tại Nhật Bản thì con người Hà Lan vĩ đại này lại mang vóc dáng của một đạo sĩ hơi pha chút hơi hướng Samurai. Năm 1987 Tập đoàn Iasuda đã mua tại một cuộc đấu giá tranh tại Luân Đôn bức “ Hoa hướng dương” với giá 40 triệu USD. Ba năm sau, nhà tỷ phú Saito Rioto đã trả bức tranh “ Chân dung bác sĩ Gashe” với giá 82 triệu USD tại nhà đấu giá Niu Ook. Mười năm liền, đây là bức tranh đắt giá nhất thế giới. Trong bản di chúc, nhà tỷ phú căn dặn sẽ hoả thiêu cùng bức tranh có một không hai này…
     Thế giới hiện nay vẫn đang chao đảo vì những vụ tai tiếng xung quanh tên tuổi của Van Gogh. Các nhà mỹ thuật học, bác học, bác sĩ …đang tiến hành nghiên cứu cuộc đời và con người thật của ông. Chính bảo tàng tranh của Van Gogh được thành lập năm 1972 tại Amstedam này đã đóng một vai trò quan trọng trong việc kiểm định tất cả các tranh của Van Gogh trên toàn thế giới. Toàn bộ tranh tại đây là do cháu ruột của hoạ sĩ đã hiến tặng đất nước Hà Lan.
   Dù sự thật về cuộc đời của danh hoạ dần dần được đưa ra ánh sáng, song huyền thoại về Van Gogh vẫn sống và có sức hấp dẫn hơn gấp bội phần sự thật trần trụi.
Đây không phải là một hiện tượng hiếm trong lịch sử, thậm chí còn khá phổ biến đối với nhiều vĩ nhân ( kể cả một số chỉ ở tầm “yếu nhân” ) đã không ngần ngại hư cấu tiểu sử của mình theo những mục đích khác nhau vì họ thừa biết rằng, chỉ có huyền thoại mới tồn tại lâu bền trên cõi đời mênh mông này.                                                       

                                                                    II

       Người Nga có một câu thành ngữ khá nổi tiếng : “ Không cần một trăm rúp mà cần một trăm người bạn”, chuyến đi của tôi vào sứ sở của Hoa tuy-lip và pho mát đã kiểm chứng chân lý trên là hoàn toàn chính xác. Với hầu bao khiêm tốn, nhưng có được những người bạn tốt, mến khách và cởi mở, tôi đã thâm nhập được vào đời sống của người Hà Lan khá tường tận chỉ trong một thời gian ngắn ngủi. Những cảm xúc trực quan đầu tiên, dù chỉ thoáng qua rất nhanh, nhưng bao giờ cũng chính xác, giống như yêu từ cái nhìn đầu tiên vậy. Đất nước Hà Lan cũng giành ngay được tình yêu trong tôi từ cái vẫy tay chào và ánh mắt thân thiện của hai vợ chồng hàng xóm người Hà Lan đang lúi húi làm vườn bên cạnh ngôi nhà xinh xắn của mình vào buổi sáng sớm đầu tiên khi tôi mở cửa sổ căn phòng trên tầng hai tại nhà của người bạn thủa sinh viên. Điều khiến tôi ngạc nhiên nhất là các ngôi nhà riêng tại đất nước này hoàn toàn không có tường rào bao quanh bảo vệ như tại Nga . Những thảm cỏ xanh mịn màng được cắt tỉa công phu, những bồn hoa rực rỡ đủ các loại chạy thẳng từ đường quốc lộ vào sát mép tường nhà. Cửa sổ tầng một chỉ có lớp kính, không hề có chấn song sắt “ chống trộm”, ngoài cổng không thấy những tấm biển đề : “ Cẩn thận, Có chó dữ ! như nhà ở tại Liên Xô cũ ”. Người Việt vốn dĩ thấp bé nên nhà cửa nhỏ hẹp thì đã đành, người Hà Lan cao lớn nhưng nhà ở lại nhỏ bé, đường phố cũng nhỏ hẹp, công viên, cửa hàng…đều xinh xắn, gọn gàng và ngăn nắp. Hà Lan là nước đứng thứ 3 về mật độ bình quân dân số, đứng sau Bănglades và Hàn Quốc. Từ xa sưa rồi, người dân Hà Lan đã lĩnh hội được nghệ thuật sử dụng từng centimet không gian sinh tồn. Bản năng và tài năng này được phát triển bởi một thực tế : gần một nửa lãnh thổ Hà Lan là do lấn biển tạo nên, và quá trình khó nhọc này vẫn còn tiếp tục đến tận ngày hôm nay. Đất nước Hà Lan nhỏ, đi ôtô chỉ 3 tiếng đồng hồ từ đầu này sang đầu kia, nhưng người Hà Lan có tầm nhìn rộng bao quát cả thế giới và là những thương gia có năng khiếu bẩm sinh. Điều này được chứng minh bởi thị trường chứng khoán đầu tiên trên thế giới được thành lập từ năm 1406 tại thành phố Bruige của Hà Lan, cạnh nhà của ông Van Der Bursa. Trên cổng ngôi nhà này có biểu tượng của ba cái ví tiền mà theo tiếng latin cổ có nghĩa là Bursa, từ đây có xuất phát nguồn gốc của từ Thị trường chứng khoán, nơi mọi người đổi tiền lấy cổ phần của các doanh nghiệp khác. Đến năm 1608, một thị trường chứng khoán có tổ chức qui mô lớn được ra đời tại Amstedam, sớm hơn 100 năm so với thị trường chứng khoán đầu tiên xuất hiện tại Xanh-Peterbuag ( Nga) vào năm 1703 do Pie Đại đế du nhập từ Hà lan về cùng với các nghề như đóng tàu thuỷ, công nghệ về vũ khí và cả thói quen hút thuốc lá nữa.
    Tôi tá túc tại ngôi nhà hai tầng khang trang của anh Littooij Siep, một nhà xã hội học, một kỹ sư nông nghiệp đã gắn bó với Việt Nam hơn 20 năm qua nhiều công trình của các tổ chức khoa học Hà Lan, các tổ chức của Liên Hiệp quốc và phi chính phủ để giúp nông thôn Việt Nam. Mười năm gần đây  anh chuyển sang giúp đỡ các trường đại học Việt Nam nâng cao chất lượng đội ngũ quản lý, giảng dậy, chương trình giảng dậy ( capacity building). Tất nhiên công trình mà anh trân trọng và quí giá hơn cả là hai đứa con khôi ngô, thông minh mang hai giòng máu Hà Lan và Việt Nam . Đã lâu lắm tôi mới lại được nói chuyện với một người nước ngoài không chỉ thông thạo tiếng Việt mà còn phong tục tập quán của người nông dân Việt nam sâu sắc đến như vậy. Điều làm tôi cảm phục là anh nghiên cứu tiếng Việt không qua một trường lớp chính qui nào mà chỉ tự học, vừa làm vừa học. Trình độ tiếng Việt của anh ở mức chính phủ Hà Lan đã mời tham gia kiểm tra dịch thuật trong cuộc gặp gỡ cấp cao giữa hai thủ tướng năm 2001.   Anh đưa tôi đi tham quan nhiều danh lam thắng cảnh của đất nước, song có lẽ chuyến đi về nông thôn thăm trang trại của một nông dân Hà Lan điển hình để lại nhiều ấn tượng và suy tư hơn cả.
    Chính phủ Hà Lan đã đa dạng hóa các hình thức giúp đỡ cho người nông dân của mình có thêm thu nhập như : khuyến khích du lịch tham quan các trang trại của nông dân, cho phép nông dân hoạt động ngoài nông nghiệp, mở các tuyến đường xe đạp đi qua các trang trại vì du lịch bằng xe đạp đến nông thôn vào các ngày nghỉ là một hoạt động rất đặc thù của người Hà Lan. Trang trại của người nông dân nằm ngay sát đường quốc lộ,thoạt mới trông tôi cứ tưởng đây là một quán hàng bên đường , trên thực tế đó cũng là một quầy bán các loại hàng nông sản khác nhau như : phomat, bánh mì, sữa, mật ong, giò…Chủ cửa hàng là một phụ nữ cao lớn, da đỏ hồng hào và có giọng nói chầm chầm như đàn ông. Anh Siep cho tôi biết là giá mua trực tiếp tại nhà của người nông dân đắt hơn so với giá tại siêu thị, bởi vậy mua đồ thực phẩm tại đây chỉ những người có yêu cầu cao về chất lượng thực phẩm, họ sắn sàng bỏ ra nhiều tiền để được mua các sản phẩm chính gốc của người nông dân, các sản phẩm sạch, chế biến thủ công không phải các sản phẩm chế biến công nghiệp. Các sản phẩm mua trực tiếp sẽ tươi hơn, ngon hơn và có tính đặc thù của từng vùng, từng trang trại. Ngoài ra, đây là cách để hỗ trợ nông nghiệp phát triển, giúp người nông dân không phải bán hàng qua trung gian thường bị mua với giá rất rẻ như tại Nga và Ucraina chẳng hạn. Chị chủ cửa hàng, sau khi nghe câu hỏi của tôi qua lời phiên dịch của anh Siep, đã vui vẻ trả lời : “ Nếu chúng tôi muốn nâng cao thu nhập thì phải đầu tư, mở rộng diện tích sản xuất hoặc đa dạng hóa các mặt hàng kinh doanh trong cửa hàng này. Nhưng không phải nông dân nào cũng có vốn hoặc chấp nhận vay vốn để đầu tư kiểu này. Hậu quả là hàng năm số lượng nông dân ở Hà Lan giảm đi khoảng từ 3-5%”.

 Chị lấy dao cắt cho chúng tôi thưởng thức những lát phomat chính gốc Hà Lan thơm ngậy và có hương vị hoàn toàn khác phomat của Nga. Tôi đã được nếm nhiều loại phomat của nhiều nước khác nhau, xong thực sự hương vị của Phomat nông dân Hà Lan rất đặc biệt. Chị chủ không hề có ý định dấu nghề và khi được hỏi về bí quyết của loại phomat số một thế giới này, chị cười và hạ giọng nói : “ Chẳng có bí mật gì ghê gớm cả, khí hậu, đất đai, chất lượng cỏ đã ảnh hưởng và quyết định đến chất lượng sữa bò. Phomat làm tại nhà máy thường phải có chất bảo quản còn ở đây chúng tôi làm khi sữa còn nóng ấm. Trong quá trình tiến hành hâm nóng và cô đặc sữa, chúng tôi bỏ thêm vào vài giọt chất dịch vị lấy từ trong dạ dày của con bê …”
 Chính cửa hàng này là một ví dụ cụ thể về việc đa dạng hóa thu nhập. Chủ cửa hàng đã lấy thêm mật ong, bia, giò, các mặt hàng thủ công mỹ nghệ đặc trưng vùng Deventer…của các hộ nông dân khác để bán còn các hộ kia lại lấy sữa, phomat của gia đình này bán thêm. Ngay đằng sau cửa hàng là khu vắt sữa bò và khu chăn nuôi hàng trăm con bò sữa do người chồng của bà chủ đảm nhiệm và được chia thành nhiều ngăn chuồng sạch sẽ, thoáng mát. Xa hơn nữa là một khoảng không gian rộng lớn chỉ có hai màu xanh: xanh ngăn ngắt của cánh đồng cỏ chạy hút tầm mắt và xanh mênh mang của bầu trời mùa thu không có một gợn mây…
 Khi bước lên xe chuẩn bị rời trang trại, tôi trông thấy một chiếc tủ gỗ lớn đựng đầy các sản phẩm của gia đình nông dân này ở ngay đầu hồi khu nhà sát đường cái lớn. Hiểu ánh mắt tò mò của tôi, anh Siep cho biết khi hết giờ làm việc, gia đình về nhà cả nếu khách hàng đi ngang qua muốn mua gì đó thì tự lấy đồ và bỏ tiền vào trong tủ một cách tự giác. Tôi đã sống ở Nga vào những thời mà chủ nghĩa xã hội đang còn thịnh vượng nhất, nhưng cũng chưa thấy điều tương tự về tinh thần tự giác cao như vậy của người dân. Không phải vô cớ mà người Nhật đã chọn Hà Lan trong số rất nhiều nước tư bản lớn hồi đầu thế kỷ 19 là nước để học tập và bắt chước về nhiều phương diện, khi Minh Trị Thiên Hoàng bắt đầu chính sách mở cửa học tập Phương Tây để phục hưng đất nước mình.              

                                                             III

             Khi nói về một gia đình thành đạt, ngoài cơ ngơi gia thất của nả, người ta còn chú ý nhiều hơn đến nề nếp giáo dục học hành của con cái trong gia đình đó. Những điều mắt thấy tai nghe trên đất nước Hà Lan khiến tôi không thể không tò mò muốn biết xem, nền giáo dục của đất nước này có điều gì nổi trổi so với các nước khác, đặc biệt là giáo dục đào tạo ở bậc đại học ?
      Hà Lan là một đất nước công nghiệp phát triển với hệ thống giáo dục không vay mượn của bất cứ nước nào. Hệ thống giáo dục này nảy sinh và phát triển ngay trong lòng đất nước, liên hệ máu thịt với các truyền thống, phong tục của Hà Lan. Với dân số 16 triệu người thì có khoảng 450 ngàn có trình độ đại học ở các hình thức khác nhau ( 27% dân số ở độ tuổi từ 15 đến 64) . Ở Hà Lan người ta chia bậc đại học   thành 3 loại tồn tại song song với nhau:

1. Universities ( Đại học tổng hợp) toàn đất nước có 14 trường, bao gồm cả trường đại học Tổng hợp mở ( Open University). Những trường này cung cấp cho sinh viên hệ thống kiến thức để họ trở thành các nhà nghiên cứu, bác học. Tuy nhiên, đại bộ phận sinh viên tốt nghiệp lại tìm việc làm ở các môi trường khác.

2. Universities of Applied Sciences ( Đại học Khoa Hoc Ung Dung) Tất cả các chương trình học của trường kiểu này đều hướng vào giáo dục nghành nghề cụ thể. Tại Hà Lan có 50 trường kiểu này.

3. International Education ( Đào tạo quốc tế) : Trên lãnh thổ Hà Lan có 15 trường loại này. Tại đây thường tiếp nhận các sinh viên đã tốt nghiệp đại học thuộc nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau. Các bài giảng được tiến hành chỉ bằng tiếng Anh và làm sao để thoả mãn các yêu cầu của sinh viên nước ngoài. Đã thành một nguyên tắc, để được nhận vào một trong những trường này, người dự tuyển phải có bằng đại học và vài năm công tác thực tế.

Cả ba loại hình đại học kể trên của Hà Lan đều có thể được giảng dạy bằng tiếng Anh. Chất lượng giáo dục đại học tốt ở Hà Lan đã nổi tiếng từ rất lâu trên toàn thế giới. Bằng tốt nghiệp của các trường đại học tại Hà Lan được thừa nhận tại tất cả các nước trên thế giới. Để đạt được điều này, trong các trường đại học vận hành một hệ thống riêng để kiểm soát chất lượng đào tạo sinh viên. Bởi vậy, khi đã chọn được trường cho mình, thí sinh không phải băn khoăn lo lắng đến chất lượng giảng dạy mà chỉ cần suy nghĩ làm sao để việc học trở nên thú vị và hấp dẫn. Mỗi trường đại học trên đất nước Hà Lan có một phong cách riêng và một không khí làm việc và giảng dạy riêng.
    Để có được những ấn tượng cụ thể sinh động, Tôi được vợ chồng anh Siep mời đến tham quan trường đại học Tổng hợp khoa học ứng dụng Saxion tại thành phố Deventer cách Amstedam hơn 1 tiếng tàu . Vì được đào tạo tại Việt Nam và ở Liên xô cũ nên tôi hoàn toàn có đủ cơ sở để so sánh và rút ra những kết luận sau khi đi tham quan và tiếp xúc nói chuyện với các sinh viên, giáo viên của trường Saxion. Điều đầu tiên đập vào mắt khi đến dự các tiết học là : Trong thời gian suốt cả tiết học, người sinh viên là trung tâm chứ không phải là giáo viên như ở Việt Nam hay ở Liên Xô cũ. Thầy giáo ở đây chỉ đóng vai trò là người hướng dẫn chứ không phải là người đọc tràng giang đại hải, còn sinh viên muốn ghi gì thì ghi như tại các giảng đường của Nga.
    Ông giáo sư Johan Wempe nói : “ Thầy giáo không phải cái gì cũng biết và không phải lĩnh vực nào cũng giỏi hơn trò. Chúng tôi không làm hộ sinh viên mà cùng nhau trao đổi thảo luận. Có như vậy, sinh viên mới chủ động không bị động. Sinh viên phải đọc trước tư liệu ở nhà để hôm sau đến trao đổi thảo luận với thầy và các bạn. Một vấn đề được đưa ra có nhiều cách trả lời, miễn làm sao để người sinh viên biết cách lập luận, biết cách tìm ra lý lẽ để bảo vệ quan điểm của mình.” . Đây không phải là nhận xét của riêng tôi mà những ai đã từng học tập và làm việc ở Châu Âu đều có chung ý kiến này : khả năng phát biểu trước đám đông của người Việt rất hạn chế. Sinh viên Châu Âu ăn nói đĩnh đạc, tự tin hơn rất nhiều.
    Qua việc tìm hiểu cơ cấu của một tiết học tại Saxion, tôi mới thấy được rõ câu nói : “không thầy đó mày làm nên” . Người thầy giáo tổ chức một giờ học dưới dạng “ Project” tức là theo chuyên đề và buộc sinh viên phải làm việc theo nhóm để kích thích tinh thần làm việc tập thể, nâng cao khả năng quản lý, điều hành nhóm. Điều này rất có lợi và thiết thực cho sinh viên ra trường, rơi vào một môi trường mà mỗi người mỗi ý mỗi cách làm việc khác nhau. Làm thế nào để mình kết hợp được điểm mạnh của mỗi người và tìm ra phương pháp giải quyết vấn đề tốt nhất. Chính những đặc điểm và phong cách học tập rất đặc thù Hà Lan này đã khiến cho sinh viên cảm thấy tự tin khi giải quyết các công việc vì tự tin vào khả năng của mình là chìa khoá dẫn đến thành công của sinh viên khi ra trường. Trình độ lý thuyết chỉ là một phần nhỏ, nhưng chính các kỹ năng để áp dụng lý thuyết vào thực tế tuỳ theo thời điểm, điều kiện và môi trường sẽ dẫn đến thành công.   Chính vì thế là sinh viên đại học khoa học ứng dụng phải học 4 năm trong đó có 1 năm thực tập tại các nhà máy, công ty để áp dụng lý thuyết vào thực tế. Đây là điều kiện bắt buộc để được làm luận văn tốt nghiệp. Các trường đại học ở Hà Lan có mối quan hệ mật thiết với các công ty và đào tạo sinh viên theo nhu cầu của thị trường. Ở đây không có chỉ tiêu đào tạo mỗi nghành do chính phủ đưa ra. Nhà trường tự quyết định số lượng sinh viên đào tạo giựa vào chất lượng đầu vào của sinh viên năm đó và giựa vào nhu cầu của xã hội, của các doanh nghiệp.
   Đó là điểm ưu việt nổi trội nhất của nền giáo dục đại học tại Hà Lan, một trong những nền giáo dục hàng đầu thế giới.

IV

       “Phố đèn đỏ” (red light districts) là điểm thu hút khách du lịch nhiều nhất tại Hà Lan, chẳng kém gì Pháp có tháp Ép-phen và Trung quốc có Vạn Lý Trường Thành. Thân thể của người phụ nữ là tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời nhất của tạo hoá. Mà đã là tác phẩm nghệ thuật thì phải có công chúng thưởng thức và đương nhiên phải mất tiền như nghe hoà nhạc hay xem bảo tàng tranh vậy. Xuất phát từ quan điểm như vậy, Hà Lan là nước duy   nhất cho phép khai thác công khai và hợp pháp nghề mại dâm. Phố đèn đỏ có ở hầu hết các thành phố lớn của Hà Lan nhưng tại Amstedam là sầm uất và đông đúc nhất.
   Tôi không phải là thánh và cũng không phải là sư nên việc đến thăm khu phố đèn đỏ, chen vai thích cánh với hàng ngàn khách du lịch từ khắp năm châu đổ về đây, cũng là lẽ thường tình. Khu phố này nằm dọc các con kênh nổi tiếng của Amstedam, rất thơ mộng và hữu tình.
   Những chiếc lá vàng đầu tiên của mùa thu buông mình rơi xuống mặt nước    xao động vì tàu thuyền đi lại ngược xuôi.
   Những cô gái điếm ăn mặc mát mẻ đứng trong các khung cửa kính nhìn ra nở nụ cười mời gọi.
   Trên những đường phố chính của khu đèn đỏ là nhưng cô gái trẻ đẹp đến từ các nước Đông Âu, châu Phi… Các cô đều thông thạo tiếng Anh. Còn những phố nghách nhỏ hẹp, các cô trông già , xấu hơn vì ở đây giá thuê thấp hơn và cũng ít khách hơn. Tôi còn nhìn thấy một bà già ở độ tuổi hưu trí, mắt đeo kính, tay đan len ngồi sau cửa kính, tất nhiên là cũng chờ khách, chờ các cụ hưu trí đến gõ cửa. Cái quan trọng là không để mình cô đơn khi về già, vẫn giúp ích gì đó cho đời !
   Không phải ai đến Hà Lan cũng có cơ may được vào trong lòng chiếc cối xay gió, một biểu tượng của đất nước, để tham quan xem nó vận hành ra sao. Tại Hà Lan có một phong tục vào một ngày trong năm người ta mở cửa các khu nhà cổ có tuổi hàng vài trăm năm cho khách thăm quan. Cối xay gió cũng thuộc loại nhà cổ. Bên trong là một cửa hàng bán các loại nông thổ sản. Người Hà Lan vẫn thích xay bột bằng cối xay gió. Mỗi cối xay gió là một doanh nghiệp tư nhân mang tính chất gia đình, truyền từ đời này sang đời khác.
    Còn, cối xay gió quay về hướng nào? Tất nhiên, dù là cối Hà Lan hay cối Tây Ban Nha của Đông kisôt thì cũng quay về hướng có gió thôi.

Deventer- Amstedam- Kiev
V.T.H

4 nhận xét:

  1. Thật thú vị khi thấy được một Vũ Tuấn Hoàng quahai búc ảnh chụp các xa nhau hàng chục năm trời. Ngày xưa ấy làm sao mà biết được cậu bé đó sẽ là người viết văn, trẻ trung và đẹp trai, được đi đó đây và viết sách…Nhiêu bạn trong trại trẻ sơ tán của Báo ND chúng ta, mỗi con người một số phận rất khác nhau, như chính đất nước ta cũng từng bước lớn lên, phát triển và tư hoàn thiện mình vậy. Tôi rất tán thành ý tưởng viết truyện về trại trẻ sơ tán, đề nghị ban liên lạc khẩn trương vận động mọi người tham gia kể chuyện, viết bài, gửi ảnh đê làm tư liệu, liên lạc với các bạn ở xa hưởng ứng kể chuyện về bản thân mình trong trại sơ tán và sau này. Một điều nên làm là tổ chức những buổi gặp gỡ các bác , các cô, các chú trong Tòa soạn ngày ấy , những người phụ trách trại trẻ ngày ấy, và cả các bậc phụ huynh của chúng ta nữa. Biết là rất khó, nhưng không phải là không làm được.
    Về chuyện đất nước Hà Lan, Vũ Tuấn Hoàng viết hay, đi nhiều, tiếp xúc nhiều. Tôi hiện đang làm cho một công ty Hà Lan, qua đó vài lần, cũng có hiểu đôi chút về bên đó, Theo cảm nhận của tôi, nói đến Hà Lan là nói đến hai điều:
    1/ Công trình đê biển: một phần đất nước Hà Lan nằm dười mực nước biển, và người Hà Lan qua hàng thế kỷ đã mở rộng và xây dựng hệ thống công trình đê biển hết sức vĩ đại. Tôi đã đến thăm bảo tàng (tôi quên mất tên rồi) về công trình đê biển lớn nhất Hà Lan mới hoàn thành trong những năm 70 và 80 của thế ký trước, mới thấy được sự vĩ đại của con người chống chọi sức mạnh của thiên nhiên, thuần hóa nó phục vụ cho con người.
    2/ Nền giáo dục: Cũng như một số nước EU quanh đó: Đức, Đan Mạch, Bỉ…họ có nền giáo dục rất tuyệt, vì con người, con người làm chủ thể và cá nhân con người được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Bạn có tin không, người đi làm chỉ cần ở nhà điện thoại báo cơ quản quản lý mình rằng mình bị đau, bị ốm và xin nghỉ việc. Không như ở Việt Nam ta, muốn nghỉ đau ốm phải đủ thứ giấy tờ chứng minh, lại còn bị vặn vẹo có ốm đau thật không, nếu không nói là còn bị mắng mỏ, xỉ vả nữa. Đó là do họ, bất cứ lúc nào, bất cứ nơi, luôn được dạy dỗ rằng họ trước hết tôn trọng người khác, tôn trọng pháp luật nếu muốn được người khác, xã hội, pháp luật tin tưởng mình, tôn trọng mình và bảo vệ mình. Đừng có quên rằng, nước Hà Lan cũng có tệ nạn xã hội, có băng đảng mafia khét tiếng toàn cầu, nhưng cuộc sống bên đó hết sức yên bình, bởi nhà nước, xã hội đủ mạnh, người dân dân trí cao, tự giác tuân thủ luật pháp

    Trả lờiXóa
  2. Mong sao mọi người dành được thời giờ để mỗi người viết một hoặc vài câu chuyện sâu sắc về thời ở Trại trẻ Sơ tán (như lời kêu gọi ở "Thông báo về phiếu thu thập tư liệu" từ ngày 05/10/2007 trên blog.

    Việc tổ chức những buổi gặp gỡ các bác, các cô, các chú trong Tòa soạn đã tham gia phụ trách Trại trẻ ngày ấy, và gặp mặt cả với các bậc sinh thành của chúng ta nữa, thì gần đây được các thành viên TTST BND nhắc tới rất nhiều trong các buổi họp mặt mà mình được tham dự. Kinh phí đóng góp không phải là vấn đề khó, cái chính là tổ chức được các buổi gặp này càng đông đủ càng tốt.

    Trả lờiXóa
  3. Theo em các anh nên cho mọi người một cái hạn để nộp bài, ai không nộp sẽ bị "phạt". Chứ không thì ngày nối ngày, ai cũng công trên việc dưới, khó mà bắt đầu được.
    H.T.V

    Trả lờiXóa
  4. Quyết liệt như Vũ đề xuất thì mới được việc.

    Nhưng mà số người thường xuyên theo dõi tình hình trên blog của hội TTST BND cũng không nhiều (có lẽ chỉ vài người).

    Vì thế cho nên phải có buổi họp mặt chung rồi kêu gọi ai viết được thì viết để đóng góp vào, trước mắt là cho blog, sau đó là cho tập sách nếu có thể :-((

    Trả lờiXóa