29/7/11

Thỉnh thoảng thấy cuộc đời này thi vị


Đọc sách

LÊ THIẾU NHƠN

Về nghề báo, chắc không cần giới thiệu nhiều, ai cũng biết Huỳnh Dũng Nhân là một cây bút phóng sự trứ danh suốt thập niên 90 của thế kỷ trước. Đến hôm nay, những phóng sự của Huỳnh Dũng Nhân được in lại thành các tập sách “Ăn Tết trong rừng chó sói”, “Ký sự xuyên Việt”, “Tôi đi bán tôi” đều vẫn còn sức chịu đựng với thời gian khắc nghiệt. Phương pháp Huỳnh Dũng Nhân ứng dụng văn chương vào báo chí, đã chứng tỏ được hiệu quả nhất định. Thế nhưng, Huỳnh Dũng Nhân vừa in một tập thơ “Dã quỳ tím” do NXB Trẻ ấn hành, khiến không ít người ngạc nhiên.

Huỳnh Dũng Nhân thừa hiểu có thể thơ mình sẽ gây… sốc cho độc giả, nên chân thành tự thú: “Có người khi đọc thơ tôi, bảo là thơ tôi hiền lành, đèm đẹp. Có người khi đọc thơ tôi, bảo: không biết tôi làm thơ tự lúc nào. Có người lại nói tôi làm báo, viết phóng sự, viết văn, đi dạy, thì ai cũng biết, nhưng làm thơ thì mới thấy, còn lạ lắm. Lại có người la ầm lên hoặc cười đầy bí hiểm: Ông mà cũng làm thơ à? Vì những lẽ đó mà tôi muốn in tập thơ này”

“Dã quỳ tím” ngót nghét 100 trang, như một cuộc tổng kết nho nhỏ cho hành trình hơn 30 năm “thỉnh thoảng thấy cuộc đời này thi vị” của Huỳnh Dũng Nhân. Sự thi vị ấy bắt đầu từ ánh mắt quan sát cảnh vật “phố tôi nằm nghiêng/ và mặt trời đi qua không mệt” đến thái độ thảng thốt riêng tư “muôn lần đến vạn lần đi/ buồn như bóng nắng mỗi khi xế chiều/ bây giờ gần cạn tuổi yêu/ tôi thắp ký ức trong veo nhớ tình”. Còn hành trình ấy cho thấy một gã đàn ông cũng hơi lãng mạn “viên gạch cũ mòn chân ngàn lữ khách/ lá cỏ nào từng in dấu em qua”, cũng hơi đa đoan “rồi mình xa hai đứa hai miền/ gửi lời thơ nhờ mặt trăng giữ hộ/ hoa lim bay cho lòng bớt nhớ”, cũng hơi dan díu “đêm chia tay trong vườn cây gió lặng/ sóng ở đâu cứ dào dạt trong lòng” và lắm phen cũng hơi lụy tình “chẳng ai gọi bỗng cứ ơi một tiếng/ ngoảnh lại buồn chẳng thấy em đâu/ chỉ thấy tách trà cô đơn khung cửa/ hương thơm bay quyện mây trắng ngang đầu”

Thơ Huỳnh Dũng Nhân tuân thủ vần điệu truyền thống. Trái tim “người cũng đã heo may” có những nhịp đập khá tinh tế, và bật ra những câu thơ thi sĩ đích thực, như “đốt lên đống lửa phiêu diêu/ muôn tàn lửa cháy bấy nhiêu môi hồng” hoặc như “khăn phiêu mời một dải sông/ giao duyên Cò Mị rượu nồng giọt khuya”. Tuy nhiên, thế mạnh của một nhà báo biết làm thơ và chịu làm thơ, không hẳn nằm hoàn toàn ở phút giây bất chợt trưa mây trắng hay khoảnh khắc lỡ làng chiều sương giăng. Trong một xã hội biến chuyển không ngừng, những người trực tiếp sống giữa dòng chảy thời cuộc như Huỳnh Dũng Nhân dễ dàng nghe được những dư chấn của tâm hồn con người. Và Huỳnh Dũng Nhân đã thực sự nhập hứng “có một kẻ đứng dang tay giữa phố/ mắt nhắm nghiền để nhớ những yêu thương/ những cay đắng và trò đời vụn vặt/ trời xanh nào thổi hết ưu phiền”.

Vì nhận ra “rất nhiều hoa đẹp ở những nơi cộc cằn”, Huỳnh Dũng Nhân có được những câu thơ lay động kẻ tri âm. Đó là trách nhiệm trước mất mát của bản thân để “Viết cho con” thành thật “một chữ ký chia ly là mẹ cha có lỗi/ khi buông tay con bơi giữa dòng đời/ quãng đường mới rồi có khi bớt lạ/ vẫn nhớ nhà thương con lắm con ơi”. Đó là trách nhiệm trước tổn thương của cộng đồng để thắp lên “Ngọn nến” trắc ẩn “Vĩnh Long, Cần Thơ/ mai này ai đi qua chiếc cầu này/ sẽ thấy cây cầu vắt ngang sông lừng lững/ có nhớ các anh chôn tuổi trẻ dưới dầm cầu nhịp 14,15/ tôi thắp lên ngọn nến… tôi thắp lên ngọn nến/ bất lực nhìn ngòi bút của mình/ không viết được gì/ khi máu chảy xuống dòng sông”.

Trong 50 bài thơ của “Dã quỳ tím”, bài thơ dài nhất cũng là bài thơ mang dấu vết Huỳnh Dũng Nhân rõ nhất có tên gọi “Gửi Hà Nội ngàn năm của tôi”. Bài thơ khoảng 1200 chữ, nếu trải ra kiểu văn xuôi thì trở thành một tản văn trữ tình và sắc sảo về mảnh đất Thăng Long nhân dịp đại lễ. Chất thơ và chất báo cùng hiện diện bằng nét chấm phá sinh động “tìm mãi Hà Nội mà chỉ thấy đèn hoa/ Cụ Rùa suy tư gì dưới đáy hồ chói lòa đèn giữa mùa mưa mà thiếu điện” và băn khoăn không dễ lý giải “nhà nhà vút cao bê tông lạnh lùng chữ tây tàu xa lạ/ cô gái phố cổ xinh như hoa nhưng lạnh ngắt nụ cười/ hay Hà Nội chỉ còn đẹp hoài niệm thôi” để rồi lắng lại thổn thức “tôi thật lòng không muốn chia sẻ với em một Hà Nội của tôi/ khi Phủ Tây Hồ giờ bán buôn cũng theo qui hoạch/ ông đồ chữ nho ngồi chìm sau những hàng bún ốc/ những tờ bạc vẫn phải trả cho sự ngơ ngẩn phố phường”.

Khi chứng kiến trên xứ sở mình vẫn còn nơi nọ nơi kia khốn khó và bất hạnh bủa vây, Huỳnh Dũng Nhân viết được một câu thơ thú vị “cánh rừng nhờ truyền thuyết khỏi vô danh”. Nhại theo cách nói ấy, để kết luận về “Dã quỳ tím” rằng: chữ nghĩa nhờ rung cảm đã thành thơ!

Sài Gòn, 7-2011
LTN

-----

Chuyên mục: Dã quỳ tím & những tri âm - Hoi Nha Van Thanh Pho Ho Chi Minh:
19.7.2011-12:30

Một cái “tôi” khát cháy!

PHAN TÙNG SƠN

“Tựa đề của tập thơ “Dã quỳ tím” như là một phép ẩn dụ của ngôn từ để khẳng định cái lõi thuỷ chung nằm trong cái vỏ ngỡ như hoang dã, vô phương kiểm soát”.

Mỗi tác giả đều có một duyên cớ đến với thơ. Và dường như cái cớ để Huỳnh Dũng Nhân đến với thơ là... không có cớ gì cả. “Sự vô cớ nào lại sáng suốt đâu em” (Hoa lim tháng sáu). Sự vô cớ bao trùm lên cái cớ có chủ định, sự sáng suốt của lý trí giấu sau nỗi trào dâng khát khao vượt khỏi tầm kiểm soát của cảm xúc “Được thở dập dồn trong cơn khát cháy”... đã làm nên cái “tôi” Huỳnh Dũng Nhân trong thơ - một cái “tôi” khát cháy.

Từng được coi là cây phóng sự số một của làng báo Việt Nam ở thập niên tám mươi, chín mươi, thế kỷ hai mươi; nhà báo Huỳnh Dũng Nhân đã tạo nên một bước ngoặt, mang phong cách đặc trưng trong tiến trình phát triển, đổi mới phóng sự báo chí. Cho đến bây giờ, dù phóng sự báo chí đương đại đã có những cách tân, tiếp biến về hình thức theo xu hướng mới, nhưng phong cách “văn trong báo, báo chứa văn” của Huỳnh Dũng Nhân thì vẫn nguyên giá trị.

Bây giờ, Huỳnh Dũng Nhân ít viết báo. Anh chuyển sang làm quản lý, giảng dạy (hiện anh là Phó Chủ tịch Hội Nhà báo TP.Hồ Chí Minh, Tổng Biên tập tạp chí Nghề báo, giảng viên bộ môn phóng sự báo chí của Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh). Bạn đọc, đồng nghiệp dễ dàng nhận ra sự liên kết, giao hòa của một Huỳnh Dũng Nhân phóng sự với một Huỳnh Dũng Nhân thơ, khi đọc “Dã quỳ tím”. “Thứ đơn giản nhất mà khó nhất/ Tôi đi tìm tôi” (Tuyên ngôn). Trước đó, anh đã có tập phóng sự “Tôi đi bán tôi” gây ấn tượng mạnh trong báo giới.

Sau những lăn lộn, quăng quật bản thân vào những trang báo, Huỳnh Dũng Nhân để dành cho thơ những gì tinh tuý nhất, thăng hoa nhất của một quãng đời xông xáo và sự góp nhặt, trải nghiệm của nghiệp báo. Và vì thế, thơ đến với anh như một lẽ tự nhiên.

Vẫn là những đề tài quen thuộc: con đường, góc phố, màu hoa, làn gió heo may, cơn mưa phùn, giá lạnh mùa đông... hay người thân, bè bạn, mối tình đầu, ký ức tuổi hoa...vv, như đã từng xuất hiện trong các tác phẩm báo chí của anh trước đây, nhưng những hình ảnh ấy khi vào thơ chỉ là cái cớ, là phương tiện để anh vin vào đó mà chiêm nghiệm, mà biểu đạt cảm xúc bằng một cái “tôi” khó lẫn. “Cánh đồng cằn khát nửa cơn mưa/ Ta xoè tay hứng một trời thơ bé” (Gửi heo may).

Dù đôi khi cũng muốn bung phá và nổi loạn “Một mình một mâm tôi uống tôi” (Không còn ai trên núi), “Em là sư tử hay ta là sư tử/ Ta bị ảo giác tràn ngập mưa phùn” (Mưa phùn)..., nhưng Huỳnh Dũng Nhân là người hướng nội. Thơ anh không cầu kỳ về ngôn ngữ, không ma mị về ý tưởng. Nhưng như thế không có nghĩa là anh cũ. Anh chủ trương làm mới thơ bằng cảm xúc, bằng chiều sâu tâm trạng với một kiểu triết luận đa chiều, chứ không “lòe” bạn đọc bằng hình thức biểu hiện.

Với “Dã quỳ tím”, Huỳnh Dũng Nhân đã bộc lộ một khao khát cháy bỏng với thơ. Mừng cho anh là cánh diều khát cháy ấy vẫn được níu giữ bởi sợi dây của sự điềm tĩnh, để không “một khắc bay lên rồi chúi xuống”. Tựa đề của tập thơ “Dã quỳ tím” như là một phép ẩn dụ của ngôn từ để khẳng định cái lõi thuỷ chung nằm trong cái vỏ ngỡ như hoang dã, vô phương kiểm soát. “Tôi. Đầu, mình, tay chân. Quần áo/ Đứng nhờ lực hút trái đất/ Cố gắng dặn mình đứng thẳng” (Tuyên ngôn).

Ở tuổi “ngũ thập tri thiên mệnh”, với Huỳnh Dũng Nhân, thơ cũng như là sống vậy!

PTS

-----

Thể thao & Văn hóa:
Thứ Ba, 12/07/2011 12:51

Nhà báo Huỳnh Dũng Nhân trở thành… nhà thơ trẻ


(TT&VH) - Ở ta có diễn viên xiếc - hài - ảo thuật Mạc Can (sinh năm 1945) đến gần cuối đời bỗng dưng trở thành “nhà văn trẻ”. Mới đây, nhà báo Huỳnh Dũng Nhân (sinh năm 1955) cũng bỗng dưng trở thành “nhà thơ trẻ” khi ra mắt tập thơ đầu tiên: Dã quỳ tím…

“Nhà thơ trẻ” Huỳnh Dũng Nhân
Nhà báo Huỳnh Dũng Nhân mới in tập thơ mang tên Dã quỳ tím (NXB Trẻ) khi đang ở tuổi 56. Ông tặng thơ và nói vui với bạn bè: “Tôi xin tặng thơ của nhà thơ trẻ Huỳnh Dũng Nhân”. Sở dĩ ông nói mình là “nhà thơ trẻ” vì nhiều người biết đến Huỳnh Dũng Nhân như một nhà báo kỳ cựu. Ông hiện là Phó Chủ tịch Hội Nhà báo TP.HCM kiêm Tổng Biên tập tạp chí Nghề báo và là giảng viên thính giảng môn Phóng sự ở khoa Báo chí và Truyền thông - ĐH KHXH&NV, TP.HCM.

Đến nay, Huỳnh Dũng Nhân đã trình làng khoảng 15 đầu sách văn học, phóng sự, tản văn, giáo trình nghiệp vụ môn phóng sự và nhận khoảng 20 giải thưởng văn học, báo chí. Nhưng in một tập thơ như Dã quỳ tím là việc đầu tiên trong đời của “nhà thơ trẻ” 56 tuổi này.

Huỳnh Dũng Nhân “tự thú” về việc “in thơ”: “Có người khi đọc thơ tôi, bảo là thơ tôi hiền lành, đèm đẹp. Có người khi đọc thơ tôi bảo: Không biết tôi làm thơ tự lúc nào. Có người lại nói tôi làm báo, viết phóng sự, viết văn, đi dạy... thì ai cũng biết, nhưng làm thơ thì mới thấy, còn lạ lắm. Lại có người la ầm lên hoặc cười đầy bí hiểm: Ông mà cũng làm thơ à? Vì những lẽ đó mà tôi muốn in tập thơ này”.

Còn đây là “tự thú” về việc “mần thơ”: “Tôi chả biết nói thế nào về thơ tôi cả. Chỉ biết là khi không viết được văn, không viết được báo, không vẽ được, không hát múa được, không la lên với thiên hạ rằng tôi yêu, tôi buồn, tôi nhớ, tôi thương... được, thì tôi muốn làm thơ. Thế thôi. Như một chút riêng tư. Như một chút gì để tặng mọi người. Kỷ niệm một lần được sống trên đời”. Nói thì nói thế, nhưng thơ Huỳnh Dũng Nhân qua góc nhìn của nghề báo vẫn đầy tính thời sự. Ngày 8/6/1979, Huỳnh Dũng Nhân viết về Con đường Thi Sách nằm gần sông Sài Gòn (Q.1, TP.HCM) nơi ông ở: ... Bộ đội Hải quân đi qua/AK nối dài hàng một/Tiếng còi tàu chào dõng dạc/Tất cả phố tôi đều nghe... Tiền tuyến nay thành hậu phương/Vẫn tự coi là tiền tuyến/Tiếng súng diệt quân bành trướng/Tất cả phố tôi đều nghe... Bài thơ Gửi Hà Nội ngàn năm của tôi viết năm 2010 là bài dài nhất với nhiều nỗi niềm nhất trong Dã quỳ tím: Thế là tôi cũng có lúc lang thang vào cái ngày Hà Nội ngàn năm tuổi/Không nắng không mưa không kỷ niệm đong đầy/Tôi chỉ có tôi những ngày ngơ ngác cũ/Cứ thương mình sao đơn chiếc nơi đây.../Thương miền Trung mùa này trắng xóa dưới cánh bay/Lật đò, trôi xe, tắc đường, mất tích/Em gái miền Trung vẫn vọng nhìn Thủ đô với yêu thương tha thiết/Hà Nội mùa này đẹp lắm phải không?

Với sinh viên khoa Báo chí, Huỳnh Dũng Nhân là một “ông thầy” nghệ sĩ và giỏi nghề. Với nghề báo, Huỳnh Dũng Nhân đã chứng minh năng lực qua hàng chục năm cầm bút. Còn với thơ, “nhà thơ trẻ” Huỳnh Dũng Nhân có... biết làm thơ không? Câu hỏi này xin dành cho bạn đọc.

Hoàng Nhân

-----

Thanh Niên Online:
22/07/2011 16:22

Nhà báo già thành nhà thơ trẻ

Trong làng báo TP.HCM, cái tên Huỳnh Dũng Nhân vốn quá quen thuộc, bởi anh vừa là Phó chủ tịch Hội Nhà báo TP.HCM vừa là Tổng biên tập Tạp chí Nghề báo, nhưng trong làng thơ thì tên anh... lạ hoắc!

Cho nên khi NXB Trẻ tung ra tập thơ Dã quỳ tím của Huỳnh Dũng Nhân, nhiều người tò mò không biết ông này có… làm báo trên thơ không? Thì đây: “Anh có nói gì đâu/Mà mắt em cứ như đầy ý hỏi/Mà môi em cứ thì thầm bối rối/Anh có nói gì đâu... Anh đi cửa trước/Em trốn cửa sau/Nhưng đôi mắt vẫn gặp nhau vồi vội/Điều rất đẹp vẫn là điều chưa nói/Bởi nói ra sợ chẳng đủ ý lời...” (Một chút riêng tư) - nghe... xao xuyến quá đi chứ! Tên tập thơ là Dã quỳ tím nhưng giở ra thì thấy đủ thứ hoa: hoa ban, hoa sen, hoa lim rồi... môi hoa và trà hoa - chứng tỏ ông cũng rất “thất thường” như lời thơ tự thú: “Tôi. Vui buồn thất thường tùy bản tin buổi sáng/Lo âu thiên tai/Sợ mất lòng người khác/Sợ vi phạm giao thông/Sợ cả tổ dân phố/Đôi khi tôi sợ tôi/Một thằng người bé nhỏ…”(Tuyên ngôn). Xin chúc mừng “nhà thơ trẻ”!
H.Đ.N

-----

SGGP Online - Thơ:
Thứ ba, 19/07/2011, 23:35 (GMT+7)

Tập thơ "Lãng mạn một dã quỳ tím"

Dã quỳ là một loài cúc dại mọc hoang dã trên vùng cao nguyên. Mỏng manh cánh nhỏ chập chờn trong gió buốt, trong nắng lạnh như bướm vẫy lượn giữa mây ngàn khiến người lãng du gợn lòng khắc khoải.

Nhà báo Huỳnh Dũng Nhân
Dã quỳ với màu vàng kiêu sa khiến người ngây ngất mặc dù mùi hương của hoa chưa thấy ai ngưỡng mộ bao giờ!
Nhưng với Nhà báo Huỳnh Dũng Nhân, dã quỳ không vàng mà lại… tím!
Có gì đó ẩn trong màu chung thủy này?
Có phải đó là nỗi nhớ về một con đường, mà nơi ấy đêm xuống thù thì lá me
ánh trăng phơi vàng dưới đất…
Về một con dốc, mà nơi ấy cắt ngang lưng chừng cửa rộng
cả rặng cây cùng chạy nghiêng…
Về một Hà Nội xa, mà ở đó đường nhỏ lắm đi một mình thôi
có ai chờ ai phía trước không…
Hà Nội giăng giăng mưa
… cây sấu chưa hoa, hoa sữa chưa hương
…thời gian đi một chiều rồi hết…
Về một vùng biển thênh thang là nơi bao người khách dừng mua kỷ niệm
dù không chọn thời gian cho nỗi nhớ
ta vẫn dành khoảnh khắc ấy cho nhau…
Lời tự thú đầu tiên của Huỳnh Dũng Nhân như một sự rào đón dư luận (tôi chả biết nói thế nào về thơ tôi cả, vì nó như một chút riêng tư, một chút gì để tặng người…/ có người bảo thơ tôi hiền lành, đèm đẹp…).
Nhưng khi đọc xong tập thơ “Dã quỳ tím” của anh, với tôi, thơ Huỳnh Dũng Nhân lãng mạn, là tiếng nói trong veo của cảm xúc thật thà, đôi khi câu thơ bất chợt làm người đọc nghẹn vô cớ.
Với “Dã quỳ tím”, đây như một nhật ký bằng thơ của Huỳnh Dũng Nhân, bởi nó ghi lại chuyện xa, chuyện gần, chuyện mới lần đầu yêu và cả chuyện say để nhìn hoa dã quỳ vàng chuyển tím. Bởi nó ghi lại từng địa danh, vùng đất anh đã đi qua: Hà Nội, Điện Biên, Sa Pa, Đại Lải, Đà Lạt, Trị An, Đắc Nông, Dầu Tiếng, Vũng Tàu, Bến Tre… Bởi nó là giọt nước mắt trào ngược vào trong của một người cha khi chưa quen với số nhà mới…
P.N.Thường Đoan

TTST BND: Mời xem lại Kỳ 1 "Dã quỳ tím & những tri âm"

23/7/11

Dã quỳ tím & những tri âm

TTST BND: Giới thiệu cùng các bạn loạt bài trên trang HNVTPHCM, gồm 3 bài trong chủ đề "Dã quỳ tím & những tri âm", của các tác giả Bùi Chí Vinh, Vũ Thanh Hoa, Duy Khanh - cùng về một sự kiện: Huỳnh Dũng Nhân xuất bản tập thơ đầu tay.

Hoi Nha Van Thanh Pho Ho Chi Minh:
19.7.2011-12:30

Đọc tập thơ Dã quỳ tím của Huỳnh Dũng Nhân
BÙI CHÍ VINH
NVTPHCM- "Dã quỳ tím cuối cùng cũng nở hoa dù… muộn. Nhân danh một bằng hữu kiêm đồng nghiệp, tôi chúc anh chàng hành phương Nam ngày nào tiếp tục mở cửa vườn mình gặt hái những bông hoa dã quỳ mới nở."

Tôi có cách riêng đọc thơ Huỳnh Dũng Nhân. Đọc không phải để chia sẻ với anh chàng yêu hoa tình cờ phát giác ra vẻ đẹp của DÃ QUỲ TÍM (tên tập thơ đầu tay của Huỳnh Dũng Nhân) mà đọc theo cách của một gã giang hồ từng trải đang quan sát cuộc hành trình của anh chàng “hành phương Nam” rất muốn làm những chuyến giang hồ.
Chớ gì nữa, thưở ấy chúng ta còn trẻ lắm phải không Nhân? Năm 1975 thuở bạn từ phương Bắc hành phương Nam tuổi chỉ mới đôi mươi còn ở Sài Gòn thì tôi 21 tuổi. Thuở ấy tuổi chúng ta đẹp đến mức mọi núi non cản trở trước mặt đều trở nên bằng phẳng dưới gót giày. Ấy thế mà, Nhân đã dự báo trước quá trình làm người của thế hệ mình đầy gập ghềnh bất trắc. Ngay ở trang thứ 7 của tập thơ, bài thơ TÔI của Nhân đã tiết lộ ít nhiều về điều đó:

Tôi luôn luôn ngọ nguậy
Trên trái đất của tôi
Chiếc ghế tôi quá chật
Khi tựa cả bầu trời
Đường tôi đi quá hẹp
Rơi rụng hết nụ cười
Nơi tôi đến xa quá
Chỉ còn lại mình tôi


Sự tiết lộ theo thời gian đã trở nên công khai, sòng phẳng hơn. Khái niệm sòng phẳng thẳng thắn đã tạo nên “cái tôi” đầy nhân tính khi Nhân tổng kết thân phận mình ở bài thơ TUYÊN NGÔN cuối tập thơ. Xin lược trích vài đoạn:

Tôi. Đầu, mình, tay chân. Quần áo
Đứng nhờ lực hút trái đất
Cố gắng dặn mình đứng thẳng

Chẳng cần nịnh nọt và cơ hội
Chẳng cần tìm cái thang cho mình
Đi, yêu và viết. Cứ thế
Cố gắng đừng đánh mất niềm tin
Thứ đơn giản mà khó nhất
Tôi đi tìm tôi


Vâng, đó chính là hai trích đoạn thơ mở ra và khép lại của một cá thể suốt hơn 30 năm đi tìm bản ngã chính mình. Huỳnh Dũng Nhân vừa hào hứng vừa thống khoái mở màn cuộc hành trình chân thiện mỹ để cuối cùng tị nạn êm đềm trong cõi thơ như vậy. Nhẹ lòng, nhẹ gánh tang bồng như lời bạn TỰ THÚ:
Tôi chả biết nói thế nào về thơ tôi cả. Chỉ biết là khi không viết được văn, không viết được báo, không vẽ được, không hát không múa được, không la lên với thiên hạ rằng tôi yêu, tôi buồn, tôi nhớ, tôi thương được thì… tôi muốn làm thơ.

Muốn làm thơ ư ? Hơn ai hết Nhân thừa hiểu làm thơ không phải dễ, nhất là làm thơ tình. Khó như là MỘT CHÚT RIÊNG TƯ vậy. Trong bài thơ trên Nhân đã rình rập một cô gái miền sông nước trong cảm giác của “ăn vụng, nhìn lén, nhớ trộm, yêu thầm” thế mà trái tim cuối cùng lại đập quá vụng về:

Đến ngày về có nói được gì đâu
Đến ngày về vẫn chỉ nhớ thầm nhau


Tội nghiệp anh chàng đa cảm mà tôi quen từ hồi tóc đen cho tới lúc tóc muối tiêu lốm đốm trên đầu có trái tim mãi mãi vụng về hờn dỗi hết sức trẻ con. Các bạn thử kiểm tra một trích đoạn bài thơ NHỚ TÌNH thử xem:

Muôn lần đến vạn lần đi
Buồn như bóng nắng mỗi khi xế chiều
Bây giờ gần cạn tuổi yêu
Tôi thắp ký ức trong veo nhớ tình


Xong. Bây giờ gạt qua một bên những khát vọng thân phận, những nỗi niềm bướm hoa của anh chàng quanh năm “mới lớn”, tôi xin phép trở lại cái cách mà tôi quan sát những cuộc phiêu lưu của Huỳnh Dũng Nhân bằng kinh nghiệm giang hồ. Bằng kinh nghiệm của một kẻ va chạm quá nhiều với đời sống, tôi thấy Nhân mỗi lần vấp ngã (trong tình yêu trong gia đình trong nghề nghiệp) là bạn lại đứng bật dậy và thăng hoa. Không tin hãy nhìn những cuộc viễn du của Nhân xem, Nhân hóa thân thành thi sĩ thực sự khi gởi hồn xâm nhập vào những vùng đất Tây Nguyên và Tây Bắc. Ở đó trước sơn lam chướng khí, trước non nước hữu tình, bạn đã khám phá ra vẻ đẹp tuyệt đối khi người nữ có mặt. Người nữ trong thơ Nhân lúc ấy là nét chấm phá linh hồn làm nên bức tranh đất nước quê hương. Tôi có thể liệt kê những bài thơ mang tựa GỬI HEO MAY, HOA BAN, NÀY EM LAI CHÂU, SAPA MƯA, MÔI HOA… như những họa phẩm hoàn chỉnh cả tứ thơ lẫn vần điệu:

Bao giờ gặp lại Sapa nhỉ
Mình lượn vòng quanh dốc nhà thờ
Để nép vào nhau Sapa lạnh
Hôn nhau ấm cả Sapa mưa


Và một đoạn khác:

Rượu cần em chúm môi hoa
Tôi đi nghiêng ngã như là bùa yêu
Đốt lên đống lửa phiêu diêu
Muôn tàn lửa cháy bấy nhiêu môi hồng


May mắn và cũng hạnh phúc thay, tâm hồn bạn tôi đã bình ổn nhờ cái đẹp mơ hồ mong manh sương khói. Cái đẹp “tình đời” ấy đã giúp chúng ta sau hơn 30 năm vẫn nguyên vẹn tình bằng hữu. Thứ tình bằng hữu của những người đàn ông thông qua thi ca lúc những năm 1975, 1976 tôi la cà đọc thơ cho Bùi Việt Phong, Huỳnh Dũng Nhân, Thái Thăng Long… ở khuôn viên trường đại học Tổng Hợp nơi các bạn theo học. Thứ tình bằng hữu truyền khẩu như lời nhà báo Duy Vượng (đã khuất núi) thường khen Nhân ngoài chuyện giỏi làm báo viết văn còn có năng khiếu… đánh bóng bàn.

Rồi mọi chuyện dâu bể chắc chắn sẽ qua cùng thế sự thăng trầm. Nhưng “quân mạc vấn” vẫn còn ám ảnh Nhân khi bạn tự chát vấn mình qua bài thơ XA XĂM đau nhói:

Thế mà cũng đã tỉnh say
Rượu xưa quán cũ những ngày cạn nhau
Mà thôi trăm thứ đớn đau
Phá cười nhìn xuống chẳng đâu là gì
Thế mà nặng trĩu làm chi
Sao ôm mãi thế, về đi hết rồi


Về đi hết rồi. DÃ QUỲ TÍM cuối cùng cũng nở hoa dù… muộn. Nhân danh một bằng hữu kiêm đồng nghiệp, tôi chúc anh chàng hành phương Nam ngày nào tiếp tục mở cửa vườn mình gặt hái những bông hoa dã quỳ mới nở. Bởi vì thưa bạn hiền, cuối cùng vẫn chỉ có thi ca và nghệ thuật là bóng mát cây đời che chở cho con người bất hạnh. Nó chứng minh cho chân lý vĩnh cửa của Goethe:

“Tất cả lý thuyết đều là màu xám
Mà cây đời thì mãi mãi xanh tươi”


16.7.2011
BCV

-----

Vũ Thanh Hoa tặng truyện, Huỳnh Dũng Nhân tặng thơ
Cuối heo may ta nhớ nụ hôn đầu
VŨ THANH HOA

Đọc tập thơ Dã quỳ tím của Huỳnh Dũng Nhân

Đôi khi ta gặp một người quen, không màu mè khách sáo, chuyện trò “rút ruột” với nhau đủ thứ trên trời dưới biển, từ những niềm hạnh phúc li ti cho đến nỗi đau sâu thẳm, và rồi ta bỗng bất ngờ, bất ngờ bởi chính sự quen thuộc có vẻ như xưa cũ ấy ẩn chứa những phát hiện, những xúc cảm tưởng như gần gũi dung dị nhưng lại đầy mới mẻ bởi những triết lý về đời sống, tình yêu, về sự thành công và mất mát… Tôi miên man nghĩ như thế khi gấp lại trang cuối cùng tập thơ Dã Quỳ Tím của nhà báo, nhà giáo, nhà văn Huỳnh Dũng Nhân; tập thơ do Nhà Xuất bản Trẻ phát hành tháng 6.2011 và tôi là một trong những người đầu tiên hân hạnh đuợc tác giả tặng.

“Tôi chả biết nói thế nào về thơ tôi cả . Chỉ biết là khi không viết được văn, không viết được báo, không vẽ được, không hát không múa được, không la lên với thiên hạ rằng tôi yêu, tôi buồn, tôi nhớ, tôi thương…thì tôi muốn làm thơ.

Thế thôi.
Như một chút riêng tư.
Như một chút gì để tặng mọi người.
Kỷ niệm một lần được sống trên đời”

(Tự thú)

Đó là những dòng “tự bạch” của tác giả mở đầu tập thơ, dường như khiêm nhường, lại duờng như có chút khoe về sự “đa nghề” của mình, tôi thấy thú vị ở ý nghĩ Kỷ niệm một lần được sống trên đời, và tôi giở tiếp trang thơ để xem “một lần sống” của Huỳnh Dũng Nhân thế nào…

Đã dặn lòng đừng ngược về quá khứ
Cuối heo may ta nhớ nụ hôn đầu
Mỏi bước hoài dốc cạn đáy ly sâu
Ta ở lại, người đừng đi, ta đợi…

(Gửi heo may)

Và trong dòng chảy bộn bề sống của người đàn ông này, ký ức chưa bao giờ ngủ yên. Tôi nhớ câu châm ngôn nước ngoài: “Điều khó xử của con người là chúng ta vừa yêu lại vừa ghét sự thay đổi.” và Hùynh Dũng Nhân luôn đau đáu với những kỷ niệm, trăn trở giữa đuợc và mất, sự trăn trở rất thơ mà cũng rất thực:

Nhớ người hồi ấy dịu dàng lắm
Mắt ướt như là mới giận ai
Mới hẹn hò đây mà xa quá
Bấm đốt tay thấy tháng năm dài

(Nhớ)

Mùa cũ dịu dàng đời cũ qua mau
Ấu thơ xưa đã về khung trời khác
Ta cũ đến không nhận ra mê hoặc
Cũ tận cùng những ký ức riêng tư

(Mùa cũ)

Rất nhiều bài diễn tả về nỗi nhớ trong Dã Quỳ Tím. Bài nhớ về Lai Châu, Điện Biên, Sapa, Đà Lạt, Bến Tre, Vũng Tàu… Có nỗi nhớ dịu dàng, mộng mơ thoảng qua mà khó quên, có nỗi nhớ ngọt ngào đắng cay, có nỗi nhớ trĩu nặng nợ nhân duyên:

Tình tôi em giữ giùm tôi
Mười năm chắc đã thuộc trời hư vô
Chơi vơi mưa nắng xa mờ
Nhớ nhau chỉ biết làm thơ chứ gì

(Nhớ tình)

Thế rồi cũng hết ngày vui
Lối xưa trưa vắng
Một người bỗng xưa

Một ngày bỗng thấy ta thừa
Đi qua hụt hẫng
Như vừa đánh rơi

(Xa xăm)

Hầu hết các bài thơ của Dã Quỳ Tím không tìm những cấu tứ lạ lẫm, mà cảm giác như tác giả đang ngồi bên cạnh, rì rầm kể câu chuyện đời mình, giản dị và gần gũi. Cách dùng từ cũng vậy, không bóng bẩy, ẩn dụ, phô diễn nhưng đằng sau những con chữ đời thuờng ấy, người đọc phát hiện ra những trải nghiệm sâu lắng của một nhà báo, nhà giáo xuất sắc, một nhà văn tinh tế, người đàn ông đối mặt với bao lo toan thường nhật, với sự đổ vỡ trong cuộc hôn nhân đầu tiên… nhoi nhói vết thuơng lòng:

Mỗi tan tầm ba rẽ sang đường khác
Số nhà mới vẫn thỉnh thoảng ba quên
Đội trưa nắng ba dừng xe ghé chợ
Thương hai con những bữa cơm buồn

Vẫn đôi lần xe chợt quen lối cũ
Vội quay đi như một kẻ nhầm đường
Đêm mưa về nhìn lên ô cửa sáng
Nhà bốn người thiếu một hóa neo đơn

Một chữ ký chia ly là mẹ cha có lỗi
Khi buông tay con bơi giữa dòng đời
Quãng đường mới rồi có khi bớt lạ
Vẫn nhớ nhà thương con lắm con ơi !

(Viết cho con)

Cuộc đời trắc trở, đầy bon chen cạm bẫy khiến trái tim đa cảm, đa tình đôi khi thấy tẻ nhạt, nhàm chán và ngột ngạt, Huỳnh Dũng Nhân có những phút thả mình ao ước chút táo bạo, chút mãnh liệt, chút tự do nhưng vẫn rất chừng mực:

Thỉnh thoảng nhắn tin thỉnh thoảng kêu điện thoại
Chẳng vì đâu, vì bất chợt chớ nhau
Thỉnh thoảng thấy cuộc đời này thi vị
Thấy ngày dài và đêm cũng rất sâu

(Thỉnh thoảng)

Khi yêu nhau xin hãy đừng so sánh,
"Em là tôi và tôi cũng là em"
Ta kiêu hãnh vì biết mình tồn tại
Hơn một lần không giống thú hoang

(Yêu)

Dã quỳ tím chủ yếu là các bài thơ theo thể tự do nhưng số ít các bài lục bát lại chấm phá những nét thành công bất ngờ của Huỳnh Dũng Nhân.:

Thế mà cũng đã tỉnh say
Rượu xưa quán cũ
Những ngày cạn nhau

Mà thôi trăm thứ đớn đau
Phá cười nhìn xuống
Chẳng đâu là gì

Thế mà nặng trĩu làm chi
Sao

Ôm
Mãi
Thế
Về đi
Hết rồi

(Xa xăm)

Người tài hoa thường thấy cô đơn giữa đám đông và Huỳnh Dũng Nhân cũng không tránh khỏi điều này, tôi nhận thấy nhiều bài thơ trong Dã quỳ tím lột tả nỗi trống trải song hành cùng tác giả:

Tôi luôn luôn ngọ nguậy
Trên trái đất của tôi
Chiếc ghế tôi quá chật
Khi tựa cả bầu trời
Đường tôi đi quá hẹp
Rơi rụng hết nụ cười
Nơi tôi đến xa quá
Chỉ còn lại mình tôi

(Tôi)

Vẫn bấy nhiêu thôi yêu với thương
Vẫn là ngần ấy chuyện đời thường
Dăm lần chán sống không tiện nói
Vài phen ngó lặng góc riêng đời

(Tôi chán tôi)

Nhưng người đàn ông với những được mất của “một lần được sống” vẫn thẳng bước vào số phận mình, đón nhận và kiêu hãnh với trái tim mạnh mẽ và đa cảm. Ngoài những bài thơ viết cho con, Huỳnh Dũng Nhân còn có rất nhiều bài thơ viết tặng cha mẹ, tặng anh trai Huỳnh Dũng Nhi:

Kiên nhẫn như bến bờ chung thủy như hải đăng
Anh ra đi rồi trở về như sóng
Gió vừa đổi chiều, muối vừa đủ mặn
Anh mơ hôn thê choàng sóng đăng-ten

(Vũng Tàu)

Cả cuộc đời khổ đau và âm thầm lặng lẽ
Con hối hận biết bao khi để mẹ buồn
Đâu phải đòn roi đã giúp con lớn khôn
Mà nhờ đôi mắt âm thầm của mẹ

(Người mẹ)

Lướt qua những nỗi buồn mất mát, tôi nhận ra nụ cười dịu dàng lạc quan của hạnh phúc hồi sinh, của tổ ấm nhỏ bé anh tìm được sau những kiếm tìm và cả những bài thơ bộc lộ góc nhìn rất “phóng sự”:

Chẳng cần thì thào, chẳng cần rón rén bước chân
Nhà của con đây, dưới bầu trời rộng lớn
Cứ hét toáng lên, cứ cười vang, con ạ
Ngoại ô của con, nhà của con mà

Chìa khóa đây ! trao thằng quậy của ba
Nào, ba dắt tay con lên từng bậc thang xinh xắn
Đồng tiền sạch nên có quyền kiêu hãnh
Mỗi mét vuông đều tình nghĩa bạn bè
(Viết cho Tom)

Thế là tôi cũng có lúc lang thang vào cái ngày Hà Nội ngàn năm tuổi

Không nắng không mưa không kỷ niệm đong đầy
Tôi chỉ có tôi những ngày ngơ ngác cũ
Cứ thương mình sao đơn chiếc nơi đây

Tìm mãi Hà Nội mà chỉ thấy đèn hoa
Cụ Rùa suy tư gì dưới đáy hồ chói lòa đèn giữa mùa mưa mà thiếu điện
Thương miền Trung những ngày này lại gầm gào bão đến
Một cây đèn cầy cũng chẳng có thắp giữa đêm đen
Lại quần quật chống che cơm áo túi tiền…

(Gửi Hà Nội ngàn năm của tôi, 2010)

Có thể thấy chân dung Huỳnh Dũng Nhân hiện lên gần gũi và chân thành bằng Thơ trong Dã Quỳ Tím làm nhiều người bất ngờ. Cách thẩm thấu cuộc sống qua thơ của anh chậm rãi, sâu sắc, dung dị nhưng đầy trải nghiệm.

Thấy một chân trời xa ngái
Một dải hoàng hôn muộn màng
Dặn mình đừng nhìn xuống đất
Cứ đi như thể ngang tàng

(Dặn mình)

Tôi. Đầu , mình, tay chân.Quần áo
Đứng nhờ lực hút trái đất
Cố gắng dặn mình đứng thẳng.

Tôi. Điện thoại. Hon đa.Vi tính.
Một mái nhà. Hai bữa cơm
Cố gắng không rảnh rỗi
Không bị đói.

Tôi. Trái tim đập mong manh. Lá phổi rất phập phồng. Mạch máu âm thầm
Chỉ nhớ đến mỗi khi vào bệnh viện. Cố gắng để an lành
Không bài bạc thuốc lá. Nhưng có thể rượu bia
Để ngày qua đừng chậm.

(Tuyên ngôn)

Khi được tặng tập thơ, tôi đã hỏi anh: “Sao dã quỳ không vàng mà lại tím?” và Huỳnh Dũng Nhân chỉ cười.

Tôi nghĩ, có lẽ tác giả đã gửi gắm rất nhiều khát vọng, tình yêu, cả nỗi đau thấm thía của cuộc đời “được sống một lần” của mình để dã quỳ được một lần trọn vẹn tím… Tôi muốn trích những câu trong bài Thơ Dã quỳ tím , cũng là tựa đề chung cho tập thơ để nói về những điều cảm nhận sau cùng trong bài viết nhỏ này.

ta không dám nhìn lâu hơn nữa
sợ phải lòng em
như thời hai mươi tuổi
phải lòng một buổi sớm mai
ta biết em nhiều năm qua thì con gái
để mỗi xuân đến hồi sinh
đường lãng du ta không mang theo em được
thôi ở lại cho người khác xao lòng
cho ta nhớ ly bia sóng sánh vàng chân núi
ngày mai đến sớm hay muộn
điều đó có nghĩa gì
nếu ta say
em sẽ đưa ta về bằng cái nhìn nhẫn nhịn
hoa dã quỳ ngả sang màu tím

(Dã quỳ tím)

Vũng Tàu 17.7.2011
Vũ Thanh Hoa

-----


Dã quì tím - nghiệp, đời và thơ
DUY KHANH
“Lần giở đến trang cuối cùng, tôi cảm nhận rằng, mỗi bài thơ trong Dã quỳ tím của Huỳnh Dũng Nhân như một câu chuyện trong bài phóng sự, mà đường nét chấm phá thì rất riêng”.
Những vầng thơ khúc chiết và lung linh, trầm lắng hay bay bổng như những nốt nhạc. Có lẽ vì vậy mà nhiều người đã cảm nhận rằng, trong thơ có nhạc và trong nhạc có thơ. Phải chăng vì thế mà 50 bài trong tập thơ Dã quỳ tím – tập thơ đầu tay của nhà báo Huỳnh Dũng Nhân chắt lọc sau hơn 30 năm làm báo - đã có đến 10 bài phổ nhạc? Tập thơ Dã quì tím tuy chưa đạt được cái hay tinh túy của thơ, nhưng đã đem đến cho người đọc những niềm tin từ cuộc sống và dòng cảm xúc dâng trào của sự chia ly chưa biết ngày trở lại bởi bước chân lãng du:
“… Đường lãng du ta không mang theo em được/ Thôi ở lại cho người khác xao lòng/ Cho ta nhớ ly bia song sánh vàng chân núi/ Ngày mai đến sớm hay muộn điều đó có nghĩa gì…” (Dã quỳ tím)
Ngay cả khi cuộc tình tan vỡ, nỗi đau anh nén vào lòng và tin vào ngày mới : “… Muốn về lấy dăm món cũ/ Sợ mắt con trẻ vỡ òa/ Con ơi lòng ba rạn nứt/ Lâu rồi đâu phải hôm qua/ Mà thôi quyết là làm lại/ Đi rồi đường mới sẽ quen…” (Làm lại).
Lần giở đến trang cuối cùng, tôi cảm nhận rằng, mỗi bài thơ trong Dã quỳ tím của Huỳnh Dũng Nhân như một câu chuyện trong bài phóng sự, mà đường nét chấm phá thì rất riêng. Phần lớn các bài thơ được viết rất phóng túng, không theo niêm luật. Nói như thể không có nghĩa là chối bỏ sự “gọt dũa” trong từng ý thơ mà cụ thể là dòng thơ quen thuộc lục bát. Xin đọc cùng tôi những vần lục bát lạ, điêu luyện và hay tuyệt vời (dù Huỳnh Dũng Nhân rất ít viết thể thơ này) : “Hôm nay chợt bỗng nhớ tình/ Từ rong rêu đến bình minh một ngày…” (Nhớ tình) hay là: “ …Mà thôi trăm thứ đớn đau/ Phá cười nhìn xuống chẳng đâu là gì/ Thế mà nặng trĩu làm cho/ Sao ôm mãi thế về đi hết rồi.” (Xa xăm). Bạn cứ thử một lần đọc Dã quỳ tím để chiêm nghiệm và vững tin vào cuộc sống tươi đẹp này, dù đã vài phen thất bại.

Duy Khanh

-----


Nhà báo và cũng là Nhà thơ "trẻ" Huỳnh Dũng Nhân (ảnh chụp 12-2004, do chính chủ gửi TTST BND)

TTST BND: Tập thơ Dã quỳ tím của Huỳnh Dũng Nhân mới ra mắt, khi tác giả ở tuổi 56, là một sự kiện "nóng" trên báo chí và trong giới văn nghệ. Dưới đây, TTST BND xin giới thiệu toàn bộ bài thơ Dã quỳ tím, mà tên của nó được lấy làm tên cho tập thơ, đăng lần đầu tiên trên báo Thanh Niên đầu năm 2006:


Thanh Niên Online:
21/01/2006 16:31

Dã quỳ tím

thế thì thôi
ta đi không trở lại
hoa dã quỳ trải
dọc đường
cao nguyên cuối trời tự nhiên có em
sáng một chân đồi
ta không dám nhìn lâu hơn nữa
sợ phải lòng em
như thời hai mươi tuổi
phải lòng một buổi sớm mai
ta biết em nhiều năm qua thì con gái
để mỗi xuân đến hồi sinh
đường lãng du ta không mang theo em được
thôi ở lại cho người khác xao lòng
cho ta nhớ ly bia sóng sánh vàng chân núi
ta đến sớm hay muộn
điều đó có nghĩa gì

-----

TTST BND:
Ghi chú: bài "Cuối heo may ta nhớ nụ hôn đầu" bên trên có được tác giả chình sửa vài chỗ so với bản đã đăng lần đầu trên trang HVNTPHCM

Kỳ sau: Thêm một số bài viết, nhận xét về tập thơ đầu tay của Huỳnh Dũng Nhân: Thỉnh thoảng thấy cuộc đời này thi vị

18/7/11

Thay ảnh nền cho Google


Nếu hàng ngày bạn nhìn thấy cửa sổ tìm kiếm của Google và cảm thấy có phần đơn điệu, muốn đôi chút thay đổi cho sinh động, có thể tự đổi hình nền giao diện của Google. Sau đây là ví dụ:

Giao diện thông thường mặc định của Google

Giao diện Google với hình nền bằng ảnh riêng của mình

Giao diện Google với hình nền lấy từ thư viện ảnh công cộng của Google

Việc thay đổi như trên được làm chỉ bằng vài thao tác đơn giản:

Bước 1: Mở cửa sổ tìm kiếm của Google (ở đây dùng địa chỉ: www.google.com.vn). Chọn bấm vào mục "Thay đổi ảnh nền" ở góc dưới bên phải

Bước 2: Trên cửa sổ tiếp theo hiện ra, đăng nhập vào tài khoản Google của mình. Nếu chưa có tài khoản Google thì bấm vào lựa chọn "Tạo một tài khoản ngay bây giờ" và làm theo hướng dẫn, việc tạo tài khoản cũng rất đơn giản.

Bước 3: Sau khi đăng nhập tài khoản Google thành công, bấm vào một trong các lựa chọn ở cột bên trái của cửa sổ vừa hiện ra để bắt đầu chọn hình nền mới cho giao diện Google của mình

Bạn có thể thử nhiều lần để chọn cho mình một cái ưng ý, hoặc vài ngày lại đổi một hình để tạo cảm giác mới. Sau đó, cứ mỗi khi mở trang chủ Google, đăng nhập vào tài khoản rồi sẽ thấy hình nền do mình đã tạo. Chúc các bạn vui vẻ!

Ghi thêm: Ở bức ảnh lũ trẻ Trại sơ tán làm nền giao diện Google đã dùng trong ví dụ, phải "nhân bản" thêm một hàng người nữa bên trên là do một số khuôn mặt ở hàng dưới bị ô nhập nội dung tìm kiếm Google che lấp khuôn mặt. Ai có hứng thú với hình đó có thể tải về từ địa chỉ này

4/7/11

Tin buồn

Chúng tôi vô cùng thương tiếc báo tin:

Ông Nguyễn Trường Sơn, sinh ngày 15 tháng 7 năm 1959, trú tại số 22, Tú Xương, Quận 3, TP.HCM, Huân chương Lao động hạng 3; nguyên công tác tại Văn phòng Chính phủ (phía Nam), đã từ trần hồi 4 giờ 50 phút ngày 03/7/2011.

Lễ viếng bắt đầu từ 11 giờ ngày 04/7/2011 tại Nhà tang lễ Thành phố, số 25 Lê Quý Đôn, Thành phố Hồ Chí Minh. Lễ truy điệu vào hồi 7 giờ ngày 07/7/2011, an táng tại Nghĩa trang Thành phố.

Xin chia buồn sâu sắc với gia đình.

Trại trẻ Sơ tán Báo Nhân Dân

Thông báo: Thay mặt hội Trại trẻ Sơ tán Báo Nhân Dân, nhóm bạn TTST BND tại TP.HCM sẽ tổ chức viếng bạn Nguyễn Trường Sơn (con chú Mạnh Hồng). Các thành viên tham dự tập trung lúc 19:00 ngày 05/7/2011 tại nhà tang lễ TP, 25 Lê Quý Đôn, Q.3 TP. HCM (liên hệ với anh Trần Minh).